Trước hết tôi xin được phép Quý vị miễn chấp cho tôi cái tội
“vô lễ” được bỏ qua mọi công thức nghi lễ cần phải có, như Kính thưa… Kính
thưa… và Kính thưa… v…v. để đi vào “câu chuyện” mà tôi trình bày với Quý vị hôm
nay.
Vâng, xin thưa: “Câu chuyện” chứ không phải bài tham luận. Xin
quý vị lượng tình xem như tôi hầu chuyện với quý vị cho vui (theo kiểu Nguyễn
Du: ”lời quê góp nhặt dông dài – mua vui cũng được một vài trống canh”) để thư
giãn sau những giờ thảo luận khá lao lực trí óc – Và tôi e rằng khi câu chuyện
kết thúc, quý vị sẽ ít nhiều không được như ý. Lý do là vì tôi sẽ không thi
công đúng như sự đặt hàng là “Vấn đề Đức Tin Hội Nhập Văn Hoá”. Quả vậy, tôi sẽ
không (ít ra là không trực tiếp và không nhiều) đề cập đến nội dung đề tài, mà
chỉ vòng tam quốc chủ đề; có chăng thì ngấp nghé ở ngưỡng cửa mà thôi. Xin quý
vị lượng thứ cho cái tội thiếu sòng phẳng trong cách làm ăn thế. Xin chân thành
cám ơn quý vị.
***
Những điều tôi trình bày sau đây là một số cảm nghĩ thiên về
trực cảm hơn là suy tư về một điều mà chúng ta có thể xem như là vấn đề PHƯƠNG
PHÁP trong cách tiếp cận với nội dung của SỰ VIỆC mà ta thường gọi là Hội Nhập
Văn Hoá đối với Đức Tin Kitô Giáo, tức là tôi sẽ không bàn đến chính sự việc
Hội nhập ấy. Những năm gần đây chủ đề nầy đã được đề cập đến trong rất nhiều
buổi thảo luận, các cuộc toạ đàm từ cấp liên Giáo phận, cho đến các Cộng đoàn
các cấp (bản thân tôi cũng có tham dự ít nhiều). Chúng ta đã được nghe, được
đọc nhiều bài tham luận có giá trị.
Hôm nay, tôi xin được trình bày một câu hỏi mà chính tôi đã tự
đặt lấy cho mình: “Cái cách chúng ta tiếp cận “sự việc” mà chúng ta gọi là “Hội
Nhập Văn Hoá” đương nhiên là cần thiết và hữu ích; nhưng có một bình diện khác
của sự việc, mà có lẽ chúng ta đã ít lưu tâm đến chăng?”.
Xin lưu ý rằng tôi dùng từ nôm na “sự việc” chứ không dùng từ
“vấn đề” là có chủ ý mà sau nầy quý vị sẽ rõ.
Tôi xin dựa vào sự phân biệt các sự việc ra làm hai loại, của
nhà Triết học bậc thầy là Gabriel Marcel. Ông ta dùng hai thuật ngữ: Problème
(tạm dịch là Vấn đề) và Mystère (tạm dịch là Huyền nhiệm) để gọi hai loại sự
việc cần phân biệt ấy.
● Problème (Vấn đề) là những sự việc ta có thể tách rời khỏi bản
thân ta, ném ra trước mặt ta, như một khách thể, một đồ vật (un objet, une
chose) để khảo sát, phân tích, lý giải đạt một câu trả lời thường là rõ ràng,
dứt khoát, chính xác. Ví dụ như: phân tích một chất hoá học, hay tuyệt vời hơn
là tìm đáp số một bài toán học. Đạt được kết quả: thường có thể diễn đạt bằng
một công thức: định lý, hay định luật. Sau khi trình với giới thẩm quyền thẩm
định: được công nhận là xong! Chỉ cần đưa ra áp dụng theo một quy trình như một
kỹ thuật công nghệ: có thể áp dụng chung cho bất cứ sự việc nào cùng một loại.
Mọi yếu tố thuộc về chủ thể cần phải gạn lọc cho thật hết sạch để đạt tính cách
khách quan 100%, và ai cũng phải đạt tới cùng một giải đáp như nhau. Ví dụ:
2+2=4; nước phân tích ra là H2O. Thời nào cũng vậy, ở đâu cũng vậy (đương nhiên
đó là lý tưởng cần hướng tới, còn gần được bao nhiêu thì còn tuỳ).
● Ngược lại Mystère (Huyền nhiệm) là những sự việc gắn liền với
bản thân ta là những hữu thể có ngã vị, có chủ thể tính, có tự do, tự quyết, tự
thực hiện lấy chính mình, tuỳ theo cái câu trả lời của mình đối với sự việc; nó
như mời gọi, thách thức chính mình, mà câu trả lời của mình chính là mình xử lý
chính mình chứ không phải là lý giải một khách thể.
Đó là trường hợp: “Anh có yêu em không?”, “Có nên bỏ túi viên đá
quý nhặt được hay không?” và chúng ta đây ai cũng biết trước câu hỏi mà Giêsu
Nazareth đặt ra: “Ta là ai?”, thì tiêu biểu là hai cách trả lời: một của Phêrô,
một của Caipha; và ta đã biết câu trả lời cho câu hỏi ấy đã kéo theo những hậu
quả như thế nào trong cách ứng xử của hai nhân vật ấy! Một người thì cuối cùng
chịu đóng đinh ngược trên thập tự để làm chứng cho Giêsu, một người thì xé áo
mà tuyên án tử hình Ngài.
Do đó cách tiếp cận một vấn đề là khác hẳn cách tiếp cận một
huyền nhiệm.
Phân biệt như vậy để thấy rõ, chứ thực ra: sự việc nào cũng có
hai dạng ấy với một tỷ lệ ít hay nhiều thôi. Ví dụ: dầu sao cũng phải biết
Giêsu người ở Galilê, con bà Maria,v.v… Và đứng trước một cục đá vô giá trị thì
tâm tư cũng ít dao động hơn trước một viên kim cương. Đứng trước sự việc nào ta
cũng có cả hai cách tiếp cận với những tỷ lệ ít nhiều khác nhau.
Đối với những vấn đề, ta cũng phải cảnh giác để ứng xử sao cho
đừng thiệt thân và có lợi tối đa (đó là bình diện huyền nhiệm của nó).
Đối với những huyền nhiệm ta cũng cần kiểm chứng để sự dấn thân
được hợp lý thuận tình.
Chắc hẳn chúng ta ai cũng đồng ý rằng cả hai sự việc Văn Hoá và
Đức Tin (nhất là Đức Tin Kitô Giáo) là hai phạm trù (tôi dùng từ này có hơi quá
cao, những tôi thấy từ khái niệm thì hơi thấp) chỉ về hai “sự việc” mà tỷ lệ
Huyền nhiệm là rất cao: nói rằng chúng chiếm đến 90% có lẽ không ngoa! Vì Đức
Tin và Văn Hoá chi phối toàn thể cuộc sống con người (cá nhân cũng như đoàn
thể) trên mọi bình diện: từ những bản năng thể lý cho đến những khát vọng tâm
lý và tâm linh.
Chắc rằng chúng ta ai cũng nghĩ rằng hai sự việc Văn Hoá và Đức
Tin đều có tỷ lệ Mầu nhiệm rất lớn, lớn lắm. Vì cả hai đều chi phối toàn thể
cuộc nhân sinh từ những bản năng thể lý cho đến những khát vọng của tâm hồn của
những chủ thể độc nhất vô nhị thuộc về những “HIC et NUNC” “ở đây và hiện nay”
vô cùng phức tạp và không bao giờ lặp lại. Nỗ lực Hội nhập hai Mầu nhiệm với
nhau, sẽ là Mầu nhiệm luỹ thừa 2! Quả là nan giải: sẽ là loanh quanh, lúng túng
như lạc vào mê hồn trận, tìm lối ra chắc là không dễ!
Cũng chính vì thế mà chúng ta có xu hướng tìm giải pháp dễ
(solution facile) muốn phi mầu nhiệm hoá nó, mà chỉ lưu tâm đến chiều kích vấn
đề của sự việc. Ta có xu hướng khách thể hoá Văn Hoá và Đức Tin cho dễ bề thao
tác trong việc hội nhập mà ta xử lý như đem pha trộn hai chất liệu nào đó với
nhau. Làm như vậy e rằng không ổn! Vì chúng ta đã quên đi rằng không có đồ vật
nào để gọi là Văn Hoá, không có đồ vật nào để gọi là Đức Tin. Văn Hoá và Đức
Tin là cái cách sống nào đó của những con người có ngã vị chủ thể tự do sáng
tạo có lịch sử tính (personne chứ không phải chose).
Vì sự sao nhãng ấy mà chúng ta chỉ chú tâm đến những sản phẩm
hữu hình đã tách ra khỏi bản thân đời sống của chủ thể và thành những Đồ Vật
(chose). Như vậy chúng ta chỉ nắm bắt các đồ vật (sản phẩm: là kiệt tác hay là
bài tiết), chứ không nắm bắt được chính SINH HOẠT HỘI NHẬP của con người trong
chiều kích NHÂN SINH, là một cái gì sống động, linh hoạt mà quên rằng “La
lettre tue, c’est l’esprit qui vivifie”. Cụ thể mà nói: sinh hoạt Hội Nhập Văn
Hoá không ở trong ngôi thánh đường Phát Diệm mà ở trong chính con người của nhà
Kiến trúc là linh mục Trần Lục, nay đã là người thiên cổ! Cũng như nó không nằm
trong bài thơ Ave Maria của Hàn Mặc Tử, mà ở trong chính tâm hồn của Thi nhân,
nay cũng đã là người thiên cổ. Ta đã lấy sản phẩm mà cho là sinh hoạt. Quả vậy,
không phải ai cũng bắt gặp được sự hội nhập văn hoá trong khối vật chất của nhà
thờ Phát Diệm, cũng như không phải ai cũng gặp được cái hồn thơ của bài Ave Maria,
có đồng thanh mới tương ứng, có đồng khí mới tương cầu! Nếu cho sinh là khổ thì
một bức tranh dù là kiệt tác của cuộc Đức Mẹ Maria viếng thăm bà Isave, có giúp
cho bắt gặp được niềm vui của bài Magnificat không? Hay chỉ đáng xót thương cho
hai phụ nữ mang thai sẽ là duyên khởi cho hai tên tử tội trong vài chục năm sau
còn nặng nghiệp oan gia nào đó chứ vinh phúc nỗi gì?!
Đọc bài kinh hiến dâng cho Tình Yêu của Têrêxa Hài Đồng mà có tư
tưởng vô ngã thì sẽ xót thương cho cô thiếu nữ tư sản Tây Phương thế kỷ 19 đắm
chìm trong Ái dục và chấp Ngã, chứ làm sao đồng cảm với mối tình say sưa ngây
ngất giữa hai Ngã vị: Giêsu Nazaret và Têrêxa Lisieux! Vì chiêm niệm Kitô và
thiền định khác nhau trời vực! (Xin lưu ý tôi chỉ nói KHÁC nhau (khó pha trộn)
chứ không nói hơn thua, sai đúng).
Xin sang một vấn đề thuần tuý văn hoá! Thử làm một cuộc điều tra
xem, trong các cô Tú, cậu Tú ngày nay mấy ai cùng với Tố Như khóc thương Thuý
Kiều và cùng với Thuý Kiều khóc thương Đạm Tiên nữa không? Hay chỉ là học tủ
làm bài bình văn học thuộc lòng như máy ghi âm để thi cho đậu mà thôi! Các cô
cậu Tú ấy với những người mẹ mù chữ ở nông thôn thuở trước khẽ ngâm Kiều ru con
ai hiểu Đoạn Trường Tân Thanh hơn? Nghe đâu thanh niên Ninh Bình không thích
Quan họ nữa, thanh niên Huế không thích Nam ai Nam bình nữa, thanh niên Bình
Định mấy ai hiểu tuồng Hát bội; và các phòng Karaoke ở thành phố HCM mấy ai ca
cải lương sáu câu vọng cổ?
Thường ta cho rằng tác phẩm được tạo nên với chất liệu nào đó là
những người con của văn nghệ sĩ! Có lẽ không phải thế. Người con của tác giả là
những ai qua tác phẩm, cùng rung cảm với tác giả và trở nên như đã được tác giả
nhập hồn. Cũng như con tinh thần của thánh Gioan Thánh Giá không phải là các
bài thơ thần hiệp của Ngài trong khối lượng từ Tây Ban Nha in trên giấy tờ, mà
là Têrêxa Hài Đồng, qua các ký hiệu ấy, làm cho chính linh đạo của Ngài sống
lại trong trái tim của mình, rồi cứ thế mà sinh sôi nảy nở cả một dòng họ
thiêng liêng Cát Minh, là cuộc sống thần hiệp của các con cái Ngài.
Sự lầm lẫn ấy đưa đến một hậu quả không hay là, hễ nói đến Hội
Nhập Văn Hoá, là ta chỉ nghĩ đến việc mô phỏng bắt chước một cách máy móc những
sản phẩm có giá trị trong quá khứ mà không có một cái gì gọi là sáng tạo. Đáng
lẽ ra ta phải tự hỏi, nếu các tác giả đã thành công trong quá khứ, mà sống vào
thời điểm và nơi chốn của ta hiện nay thì các ngài SẼ làm gì. Bảo tồn di sản là
để qua cái di tích vật chất ấy làm sao thấm nhuần đến mức đi vào được cái Thần
của tác giả xưa, để tự mình tưởng tượng ra, nếu trong hoàn cảnh hiện tại, thì
cái Thần ấy SẼ biểu hiện ra dưới biểu trưng nào, chứ không phải cứ việc lặp lại
các sản phẩm ĐÃ được làm nên trong quá khứ. Truyền thống là một nguồn mạch sống
luôn tạo nên cái mới theo một tinh thần, theo một cái hồn nào đó, rồi chính
mình phải sáng tạo ra cái hình hài khác nhưng vẫn là tiếp tục và phát triển cái
hồn xưa vốn có tính cách siêu thời gian và phong phú. Vì vậy không nắm được cái
tinh thần của linh mục Trần Lục, thì chỉ có thể bắt chước, sao chép như
photocopy nguyên bản chứ không thể sáng tạo cái hợp thời theo tinh thần của
Trần Lục. Ví dụ: Thánh Phanxicô ở thời Ngài, theo tinh thần nghèo khó thì phải
ăn xin, nhưng nay theo tinh thần nghèo khó của Ngài thì hình thức ăn xin không
hợp nữa, mà phải lao động sản xuất mới thực sự là trung thành với tinh thần của
Ngài. Làm sống lại, hay nói đúng hơn vẫn duy trì sống động cái tinh thần trong
hình hài mới, chứ không phải ép xác cái hình hài cũ nguyên xi bỏ vào lồng kính!
Bất cứ nhà xây dựng thuộc dân tộc nào cũng làm lại được một nhà thờ Phát Diệm
nguyên xi: nhưng đó là phục chế chứ không phải trung thành với tinh thần truyền
thống; đó là việc của thợ thi công chứ không phải là tài hoa của nhà kiến trúc
có nghệ thuật cao!
Không chính tự mình thấm nhuần cái hồn dân tộc Việt Nam thì
không thể tạo nên một ngôi thánh đường, không phải là sao y nguyên bản mà là
tiếp nối cái tinh thần của linh mục Trần Lục. Không có một tâm hồn như Hàn Mặc
Tử thì không thể sáng tác một bài thơ, không phải chỉ là bản sao mà là một bài
thơ cùng một dòng với Hàn Mặc Tử! Chính bản thân có đẹp như Tây Thi thì nhăn
mặt khi đau bụng lại càng thêm đẹp, còn bản thân thì xấu, bắt chước Tây Thi
nhăn mặt thì làm thiên hạ khiếp sợ bỏ chạy. Cứ xem một vài thánh đường mới xây
bắt chước một vài chi tiết của nhà thờ Phát Diệm mà chính nhà kiến trúc không
có một nền văn hoá có chiều dày truyền thống Đông Phương, thì trông Tây không
ra Tây, Đông cũng chẳng phải Đông! Nếu uống từng két bia, thay đổi xe máy hàng
tháng, hàng đêm đua xe làm tắc nghẽn giao thông, mà làm thơ Đường thì chỉ là văn
xuôi có vần chứ làm sao có hồn thơ của Lý Bạch Đỗ Phủ!
Hội Nhập Văn Hoá thực sự trước hết là ở chính trong cuộc sống
của bản thân từng người, rồi tự nhiên sẽ sản sinh ra những hoa quả tốt đẹp. Sau
thời gian nhập đạo, sống thân cận với một số gia đình Công Giáo tại một vùng
quê, tôi thấy Hội Nhập Văn Hoá đã thực sự xuất hiện nơi các bà mẹ Công Giáo
Việt Nam vừa có những nét của Mạnh Mẫu, vừa có những nét của Đức Mẹ Maria, và
sản phẩm của các ngài là biết bao nhiêu là tu sĩ nam nữ, linh mục được cống
hiến cho Giáo Hội và phục vụ đồng bào. Sau hơn 50 năm trời, mà tôi vẫn
còn nhớ rõ cái hình ảnh của một chặng đường thánh giá được tiếp diễn một cách
sống động ngay giữa khung cảnh thiên nhiên của sông núi quê tôi: Trên một dốc
cao ven bờ Vực Nầm (nơi mới bị lũ lụt xói mòn vừa qua), dưới cái nắng gay gắt
của mùa hạ, ngọn gió Lào quần quật, một em bé quãng 14,15 vác một thân cây có
lẽ nặng gần gấp đôi chính cơ thể em, từng bước một nặng nhọc đi lên, mồ hôi tầm
tả, hơi thở dồn dập, tôi chạy lại gần ghé vai chung vác cho tới đỉnh. Bỏ khúc
cây xuống nghỉ, tôi hỏi em: “Vác như rứa có nhoọc (mệt) lắm không em?”. Em mỉm
cười: “Nhoọc lắm anh ạ, nhưng so với Chúa Giêsu vác thánh giá lên đỉnh núi
Canve, thì có thấm chi mô?”. Đối với tôi, chính bản thân em trong giây phút ấy đã
hội nhập đức tin Kitô vào chính cái văn hoá cần cù lao động của cả vùng quê
tôi, giữa cảnh đồi núi, sông ngòi của vùng Nghệ Tĩnh ở một đỉnh cao. Mà nào có
ai biết ai hay ai ca tụng ngoài Chúa ra! Và chính bản thân em bé ấy thì hoàn
toàn không biết “vấn đề” hội nhập, song em đã sống cái “huyền nhiệm” hội nhập
một cách tuyệt vời! Mà cái đó mới là chính yếu. Một hình ảnh khác, một vị tu
sĩ, trong trại cải tạo, tuân thủ kỷ luật rất nghiêm túc, các bạn cùng cảnh ngộ
hỏi: “Thầy sợ họ lắm sao mà tuân thủ kỷ luật quá vậy!”, “Không! Tôi chỉ sợ
Chúa, tôi sống đức vâng lời trong cái hoàn cảnh này đó mà!”. Cái văn hoá trại
cải tạo đã được nâng lên cao trong tinh thần tu hành Kitô Giáo! Đó cũng là một
gương Hội Nhập khá sáng!
Vậy sự việc không phải là cố gắng một cách duy lý, duy ý chí,
bắt chước máy móc một mô hình đã có nào đó, mà tự mình thể hiện nơi đời sống
văn hoá của mình sự phối hợp với đức tin của mình. Điều kiện cần phải có là
mình hấp thụ chính cái văn hoá nơi và lúc mình đang sống, yêu mến nó trong
những gì là hay là tốt rồi nâng lên với chính đức Giêsu đang sống trong tâm hồn
mình, gần như một cuộc hôn phối giữa Ngài và cái tinh thần văn hoá đang linh
hoạt nơi mình.
Vì vậy từ hội nhập có lẽ không sát nghĩa lắm. Đây không phải là
dung hoà giữa nền văn hoá nầy với nền văn hoá kia, mà sự kết nghĩa giao duyên
giữa văn hoá mà mình sống với chính Thiên Chúa Ngôi Hai để mầu nhiệm Nhập Thể
vẫn tiếp tục thể hiện trong bản thân mình. Thánh Phaolô đã dùng hình ảnh hôn
phối để nói về sự kết hợp giữa đức Giêsu Kitô và Hội Thánh là hiền thê của
Ngài. Thời Cựu Ước cũng dùng hình ảnh tình yêu vợ chồng để nói về tương quan
giữa Thiên Chúa và Dân Người. Tóm lại Hội Nhập Văn Hoá chỉ là tiếp diễn mầu
nhiệm Nhập Thể nơi mỗi người tín hữu thuộc mọi thời đại và ở khắp mọi nơi. Và
nếu như sự nhập thể được xem như một cuộc hôn nhân thì đương nhiên sẽ sinh sản
ra hoa quả, như những người con linh hoạt, nơi mà hình ảnh của Cha và Mẹ kết
thành một, chứ không phải như cái máy sản xuất ra một lô sản phẩm hàng loạt. Và
con cái tuy cùng chung một cha một mẹ, nhưng như chị em Thuý Vân Thúy Kiều “Mỗi
người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Mỗi người một vẻ chứ không phải một lô hàng
gốm cùng đúc một khuôn, nung trong một lò chỉ là những vật chất dù có đẹp đến
đâu!
Kiệt tác chính là cuộc sống của con người toàn diện, sản phẩm
chỉ là biểu hiện bên ngoài chỉ có ý nghĩa với những ai đồng thanh đồng khí. Ta
thử hỏi xem nếu cho sinh là khổ thì có thể vẽ được một bức tranh vẽ cảnh Đức Mẹ
đi viếng bà Isave mà làm cho người xem thông dự vào niềm vui của hai bà mẹ
tương lai, như bài Magnificat đã phản ánh không? Vì đối với người ấy thì hai
cái bào thai kia là duyên khởi của hai chúng sinh sẽ bất đắc kỳ tử chưa biết
oan nghiệt ra sao? Không thể nào reo vui nhảy mừng trong bụng mẹ như bào thai
của Gioan Tẩy Giả được, và bà Maria làm sao cất tiếng ngợi khen Thiên Chúa
được? Ngược lại một người Công Giáo Việt Nam, mà từ thuở bé không hề cảm xúc
sâu xa trước tà áo phụ nữ Việt Nam nhẹ bay theo bước đi của bà của mẹ của chị
của em gái mình, thì dù có cố gắng mấy tạc tượng Đức Mẹ mặc áo phụ nữ Việt Nam
sẽ không có cái thần tà áo phụ nữ Việt Nam được.
Vậy việc phải làm là làm sao để tâm hồn thấm nhuần cái thần của
văn hoá Việt Nam trong cái chiều sâu của tâm hồn chứ không phải cố mô phỏng các
di sản ĐÃ được làm nên. Muốn tìm câu trả lời ta thử hỏi một vài câu.
Ví dụ: trong tầng lớp gọi là trí thức hiện nay số người thấm
nhuần văn hoá Trung Hoa Ấn Độ, như Augustin và Thomas thấm nhuần văn hoá La-Hy,
được mấy người?
Chúng ta biết các đại chủng sinh, ở cấp trung học hầu hết nắm
khá vững văn chương của nước họ đã đành, lại còn cả của các nước lân cận, và xa
hơn là văn chương cổ đại Hy Lạp và La Mã! Số người trong các đại chủng viện của
ta, bao nhiều người thực sự cảm thụ được cái thần của thơ Lý Bạch Đỗ Phủ, và
ngay cả những tác phẩm như Cung oán ngâm khúc, Chinh phụ ngâm; kể cả truyện
Kiều thì cũng chỉ học vừa đủ để làm bài thi đủ điểm đậu theo kiểu học tủ mà
thôi!
Rồi trong lớp người sau 30 tuổi, số người mà thời thơ ấu được mẹ
ru bằng những câu ca dao, là bao nhiêu! Và ta thử làm trắc nghiệm mà xem, số
tục ngữ về các mặt đạo đức phong tục, sinh hoạt sản xuất, nhân tình thế thái,
họ có biết nhiều không và có ăn sâu vào tiềm thức và chi phối lên cách ứng xử
kể cả những việc như giặt áo quần, quét nhà, khuân vác, leo trèo v.v…?
Số người Công Giáo sành về nghệ thuật cổ truyền, có được mấy ai
còn biết chơi, hoặc ít ra biết thưởng thức hát chèo, hát bội, nhạc cung đình,
và Nam ai Nam bình?
Những mô-típ điển hình như các nhân vật Nhị Độ Mai, tích Lưu
Bình Dương Lễ, Từ Thức, Liễu Hạnh, Phan Trần có phả vào đời sống tâm tình những
cung bậc nào không?
Rồi hoa ngâu, hoa lý, hoa lài, hoa bưởi, hoa cau, hoa sim, hoa
dâm bụt, rau ngò, rau húng, rau dền, rau đay, rau mùng tơi, rau má, rau sam,
quả nhát, quả cà, quả chùm ruột, quả trứng cá, quả ổi, quả me, còn để lại những
cảm giác gì trong ký ức tuổi thơ với những cá thia, chuồn chuồn, chim chích
choè, chèo bẻo, chìa vôi, chim quốc, chim vạc, chim cú, đỉa, sâu róm, nhện,
thằn lằn, bò cạp, con rươi, con cà cuống, con ve, con ong và còn biết bao nhiêu
mà kể, có để lại một vài kỷ niệm vui buồn nào không?
Chưa nói đến vấn đề triết học thần học cao sâu, nhưng nếu những
sự vật kể trên mờ nhạt trong tâm tư thì làm sao mà có thơ văn, kiến trúc, hội
hoạ, âm nhạc có màu sắc Việt Nam? Và những từ nôm na như: song, vẫn, dù cho,
chi mấy… mà không ăn sâu vào cân não thì suy tư chưa hẳn có dấu ấn Việt Nam. Ví
dụ tiếng Pháp, tôi có được nghe một giáo sư triết khởi đầu giáo trình bằng cách
nêu lên những gì gợi lên cho ông từ hai chữ ‘Jamais’ và ‘À jamais’. Chỉ có một
chữ giới từ “À” mà ‘Jamais’ là ‘không bao giờ’, còn ‘À jamais’ là ‘mãi mãi’:
một mảng tâm hồn dân Pháp hàm chứa trong một chừ “À”! Mấy ai ngẫm nghĩ xem chữ “Ai”
trong tiếng Việt hàm chứa những gì bằng cách so sánh AI và GÌ như câu hỏi của
Chúa: “Ta là AI” và câu hỏi: “Mầy là GÌ của tao mà đòi v.v…” (Personne và
Nature đấy: chìa khoá đi vào mầu nhiệm nhập thể đấy!).
Tôi không dám khẳng định, nhưng xin mạo muội nói thật rằng: Tôi
có cảm tưởng như cái hồn, cái thần của Văn hoá Đông Phương không thấm nhuần vào
tâm tình của người Công Giáo Việt Nam. Và nếu quả là như vậy thì tại sao? Có
phải vì người Công Giáo tâm hồn hời hợt nông cạn chăng? – Không phải thế – nhưng
tại sao xem ra lại có vẻ như thế?
Xin tạm đưa ra một vài giả thiết như sau:
Có nhiều lý do: tâm lý và tâm linh của người Công Giáo Việt Nam
có một cái gì đó làm cho nó khó bén rễ vào sâu bất cứ một cái gì. Không phải
bản chất như vậy! Nguyễn Trường Tộ, Trương Vĩnh Ký, Ngô Đình Khả, Nguyễn Hữu
Bài, Hàn Mặc Tử, một số trí thức Công Giáo miền Nam trước đây, cho ta thấy, nếu
có điều kiện thuận lợi thì người Công Giáo cũng như bất cứ người Việt Nam nào.
Nhưng vì có cái gì đó làm cho cái rễ chính không thể ăn sâu vào lòng đất gần
như một cây đa bị trồng vào một chậu cảnh, thì rễ làm sao ăn sâu vào gì được.
Cái chậu cảnh ấy là gì? Thưa: là cái khung sống xã hội của người
Công Giáo Việt Nam. Vì hoàn cảnh bên ngoài xã hội: người Công Giáo thường tụ
tập với nhau trong những giáo xứ. Tổ chức phần nào theo cơ chế của làng Việt
Nam. Mà làng Việt Nam thì thường là khép kín trong một bờ rào tre xanh kiên cố,
ra vào có cổng. Các làng bên lương thì tuy khép kín nhưng từ lâu đời đã được
thấm nhuần trong một nền văn hoá với một chiều dày lịch sử với ba lớp phù sa
dày của Tam giáo: Phật Nho Lão. Còn làng Công Giáo thì đời sống tâm linh được
nuôi dưỡng bởi một đức tin đã thấm nhuần văn hoá Tây Phương, đồng thời cái văn
hoá Tây Phương ấy cũng thấm nhuần Kitô Giáo: đó là kết quả một sự nghiệp Hội
Nhập Văn Hoá của Kitô Giáo Tây Phương mà 2000 năm của lịch sử Tây Phương cho ta
thấy nó đã tạo nên một sự nghiệp lẫy lừng. Những người Công Giáo Việt Nam bị
kẹt vào một cái thế bị trồng vào chậu cảnh, rễ không thể bén sâu (như người
Công Giáo Tây Phương trên bản địa lâu đời của họ, hoặc như người lương trên bản
địa lâu đời của mình) nên ngay chính tâm lý Đức Tin cũng không sâu xa được.
Nhiệt tình, quảng đại, nghiêm túc, nhưng chưa thấm nhuần vào chiều sâu thẳm
nhất của bản thân, nên chưa biến thành như một seconde nature (bản tính thiên
nhiên thứ hai) mà có cái gì như ghép tháp vào có phần gượng ép: chỉ mới ở phần
lý trí (với các tín điều), phần luân lý và kỷ luật (giữ đạo). Có thể hăng hái
tử đạo, nhưng không có cái chiều sâu của đời sống thần hiệp nên chưa có một
linh đạo nào có bản sắc mà chỉ toàn vay mượn.
Vững về niềm tin (tín lý), nghiêm túc về đạo đức luân lý, nhưng
vẫn còn cạn về đời sống nội tâm thiêng liêng.
Đức tin của người Kitô Giáo Tây Phương, là cái cây gieo trên bản
địa văn hoá La-Hy bởi những hạt giống Kitô chưa Hội Nhập Văn Hoá nào cả, nên đã
lớn mạnh với hạt giống nguyên xi nuôi dưỡng bởi một nền văn hoá bản địa. Cái
đức tin Kitô được truyền sang Đông Phương là một đức tin đã được phối hiệp rất
sâu xa với một nền văn hoá đã lâu đời, đem gieo vào tâm hồn của những con người
bị tách ra khỏi cái bản địa văn hoá của mình. Thậm tệ hơn là bị ngăn cấm không
được dinh dưỡng bởi nhựa văn hoá của mình. Tại sao bị cấm? Tôi không đồng ý với
những ai trách móc các thừa sai đã có lỗi trong sự việc ấy: các ngài đành phải
làm như vậy, vì nền văn hoá bản địa đã thấm nhuần bởi Tam giáo (tương tự như
Tây Phương đã thấm nhuần Kitô Giáo) cho nên thấm nhuần văn hoá Đông Phương thì
có nguy cơ nuốt luôn cả Tam giáo và có thể tạo nên những điều trái nghịch với
Kitô Giáo. Đời sống tâm linh èo uột ấy cuối cùng cũng làm kẹt không cho cái hồn
của Đất Nước nhập vào sâu được. Thành thử có hiện tượng ảnh hưởng tiêu cực hai
chiều hỗ tương cho nhau rất nặng: vì tự tách rời nên không ăn sâu vào nền đất
văn hoá bản địa, và thiếu nền văn hoá bản địa (mà chỉ sống trên một nền Đức Tin
Kitô đã được hội nhập khăng khít với một nền văn hoá nên Đức Tin cũng khó có
chiều sâu tâm linh mà chỉ mạnh ở phần chí (luân lý) và vững ở phần lý (tính
điều) mà thôi.
Cần phải thực hiện một công trình thanh lọc lâu dài đầy trắc
trở:
- Một mặt cắm sâu vào bản địa văn hoá của mình, nhưng phải khử
những yếu tố có tính cách tôn giáo với những tín điều nghịch với đức tin (Ví
dụ: Học thiền, nhưng phải tránh cái hậu quả là đi đến chỗ lầm lẫn Hoá thân và
Nhập thể. Vun quén lòng hiếu thảo nhưng phải tránh cái cám dỗ phải có kẻ nối
dõi tông đường trái với luật hôn nhân (nếu không may không có con trai; hoặc
con trai một mà muốn hiến dâng cho Chúa thì đừng ngăn cấm).).
- Một mặt cần trau dồi đời sống thiêng liêng nội tâm (vie
spirituelle) đạt đến chiều sâu thần hiệp.
- Có chiều sâu tâm linh thần hiệp thì lại có khả năng nhập sâu
vào hồn non sông đất nước hơn.
Sự ngăn cản có hai chiều hỗ tương, thì sự phát triển tháo gỡ
cũng tích cực hai chiều hỗ tương.
Công việc của chúng ta nặng gấp đôi công việc của thế hệ Kitô
Giáo đầu tiên: vì họ là con đầu, hạt giống Đức Tin còn nguyên xi chưa bị hội
nhập hoá với nền văn hoá nào cả. Họ chỉ có việc hội nhập hoá với nền văn hoá
bản địa của họ.
Còn ta cần nhiều công đoạn:
1) Thấm nhuần Đức Tin đã bị hội nhập với nền văn hoá Tây Phương.
2) Thanh lọc những yếu tố văn hoá Tây Phương để tiếp cận ngay
với hạt giống nguyên sơ (việc này rất khó).
3) Thấm nhuần văn hoá bản địa (nhưng phải thanh lọc những yếu tố
các tín ngưỡng đã in dấu sâu xa vào văn hoá ấy, việc này cũng không phải dễ).
Muốn thanh lọc những yếu tố văn hoá Tây Phương khỏi Đức Tin, thì
phải thấm nhuần văn hoá bản địa – nhưng muốn thanh lọc văn hoá bản địa khỏi các
tín ngưỡng, thì lại phải thấm nhuần Đức Tin Kitô vào chiều sâu tâm linh. Và sự
thanh lọc nào cũng đau đớn và có những nguy cơ như một cuộc giải phẫu!
Sự thanh lọc yếu tố văn hoá Tây Phương trong Đức Tin có thể đi
đến thực sự hoặc bị chụp mũ lạc giáo.
Sự thanh lọc yếu tố tín ngưỡng của văn hoá bản địa có thể đi đến
thực sự hoặc bị nghi oan là vong bản.
Có thể nói sự Hội Nhập Văn Hoá của Kitô Giáo Đông Phương đang
còn mới bắt đầu đi vào giai đoạn purgative (thanh lọc cả hai chiều), và giai
đoạn ấy thì phải là rất đau đớn và cũng có thể phải kéo dài và đầy cạm bẫy thử
thách đến từ nhiều phía như ở thế kẹt giữa hai lằn đạn công kích:
1) Một lằn đạn công kích cho là lạc giáo.
2) Một lằn đạn công kích cho là vong bản.
Có thể bị thương vì cả hai phía. Nhưng! Mầu nhiệm Nhập thế phải
qua mầu nhiệm Khổ nạn, rồi mới tiến về mầu nhiệm Phục sinh. Quy luật ấy không
thể tránh. Và nếu lấy hình ảnh hôn phối và tình yêu hôn nhân để gợi ý tạo hình
cho sự nghiệp Hội Nhập Văn Hoá, thì đau khổ là đương nhiên: tình yêu nào lại
chẳng đòi hỏi hy sinh và tạo nhiều gian khổ. Và đó cũng chính là một chặng
đường phải qua nếu muốn là môn đệ của Ngài.
Hãy vác thánh giá hằng ngày mà theo Ta trong tiếng gọi Tình Yêu.
Bon courage mes amis
Và Ama et fac quod vis.
Tác giả: Nguyễn Khắc
Dương
Nguồn: dunglac.org