CHÚA NHẬT V PHỤC SINH:LỜI TỪ BIỆT LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI


(Ga 13, 31-33a.34-35)

Peter Bàng,SVD
Một lời trăn trối đã làm biến đổi lòng người, hàn gắn tình anh em và vun xây một đại gia đình trong yêu thương. Chuyện đã xẩy ra cách đây gần mười lăm năm, tại ngôi làng thân thương của tôi. Trong làng tôi, hai ông bà có năm người con, cả năm người con đều được hai ông bà chăm sóc chu đáo, học tập đàng khoàng. Đến lúc trưởng thành, từng người đều đi lấy chồng lấy vợ. Bốn người con lớn được ông bà xây cất nhà cửa đàng hoàng, còn lại người con út ở với ông bà để chăm sóc ông bà. Mọi chuyện rất đầm ấm khi người con út chưa lấy vợ. Nào ngờ, sự tham lam và ghen tị đã chui vào phá tan tình cảm anh em và lòng hiếu thảo đối với cha mẹ khi người con út lấy vợ. Chỉ vì của cải, các anh chị trước bảo rằng bố mẹ đã dành mọi của cải cho người em út. Rồi các anh chị lớn tố cáo nhau, bố mẹ cho mày cái này cái kia, nhưng lại không cho tao… chuyện tưởng chừng là vậy. Nhưng còn có các tập tiếp theo éo le hơn, đau đớn hơn. Các anh chị bắt ông bà phải chia đất bằng nhau cho từng người một, vì ông bà có một khu đất khá lớn. Chuyện nội bộ như thế nào thì tôi không được rõ lắm, nhưng tôi thấy hậu quả là anh em đã chửi bới, đánh đập nhau và kiện tụng cha mẹ ra chính quyền để xét xử. Thời gian đó ông bà đau khổ, tủi nhục với làng xóm; con cái thì giận hờn và không nhìn mặt nhau. Khoảng năm – sáu năm sau bà mất, tiếp năm sau là ông mất. Tôi nghe người ta nói lại rằng, trước khi mất, ông đã gọi năm người con lại và dăn dò rằng: Các con yêu mến của bố, suốt đời mẹ và  bố đã sống trong đau khổ và tủi hổ chỉ vì các con thiếu đoàn kết và yêu thương. Chính vì thế, trước khi lìa đời bố muốn các con ở lại hãy sống yêu thương nâng đỡ nhàu, bỏ qua những lỗi lầm xúc phạm lẫn nhau nhé. Các con thực hiện điều đó thì bố ra đi an vui và sẽ nhớ đến các con!
Thật ngỡ ngàng và khâm phục, sau đám tang của bố, năm anh em sống đoàn kết yêu thương nhau, làm ăn khá giả và sống đạo rất tốt! Người ta bảo rằng, nhờ lời từ biệt của người bố mà anh em họ đã thay đổi như thế.
Bài Tin Mừng hôm nay, trước khi tiến đến cuộc thương khó, Đức Giêsu đã để lại lời từ biệt cho các môn đệ, đó là: Anh em hãy yêu thương nhau (Ga 13,34). Trước khi chết, người ta thường để lại những lời nhắn nhủ với những người thân cận. Những lời nhắn của người sắp ra đi thường làm biến đổi cuộc đời của những người ở lại. Cách đây hơn hai ngàn năm, lời từ biệt của Đức Giêsu không những vang vọng trong nước Do Thái, mà còn lan tỏa đến tận cùng cõi đất. Lời từ biệt của Đức Giêsu cũng được gọi là điều răn mới. Không phải mới ở nội dung, nhưng là mới ở cách thức.
Chính trong Cựu ước đã xuất hiện điều răn này, đó là: "Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình" (Lv 19,18). Nhưng sang Tân ước, Đức Giêsu đã từng giải thích lại ý niệm về "người thân cận". Theo Ngài, người thân cận không chỉ là đồng bào ruột thịt ở trong nước Do Thái mà thôi, nhưng là bất cứ người nào và dù ở đâu. Chính vì thế, mỗi khi tôi giúp đỡ ai, là lúc tôi làm cho người đó trở thành "người thân cận" của tôi (Lc 10,29.36).
Trong Tin Mừng Gioan (thứ Tư), danh từ evntolh (điều răn) xuất hiện 10 lần trong đó có 9 lần gắn liền với đề tài “tình yêu”. “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến anh em, anh em hãy yêu mến nhau” (Ga 13,34). Qua đó, ta thấy điều răn yêu thương trong Tin Mừng thứ Tư mang 3 đặc điểm: là điều răn của Đức Giêsu, đây là điều răn mớihãy yêu thương nhau như Đức Giêsu đã yêu.
Thứ nhất, đây là điều răn của Đức Giêsu, vì chính Đức Giêsu đã nhận được từ Chúa Cha (Ga 12,49). Điều răn đó trở thành điều răn của Đức Giêsu và Người ban điều răn ấy cho các môn đệ. Như thế, Đức Giêsu vừa là người sở hữu vừa là người ban điều răn yêu thương.
Hai là hãy yêu như Đức Giêsu đã yêu. Đây là điểm quy chiếu Kitô học quan trọng trong điều răn mới. Từ “như” (kaqwvj) ở đây có nghĩa thần học, diễn tả nền tảng, nguồn gốc và nguồn mạch tình yêu của các môn đệ. Như thế tình yêu thương lẫn nhau của các môn đệ chỉ có thể tồn tại trong, nhờ và với  tình yêu của Đức Giêsu.
Cuối cùng là Điều răn mới. “Điều răn mới” trong Tin Mừng Gioan vừa tiếp nối, vừa mới mẻ so với điều răn yêu thương trong Lv 19,18. Tiếp nối vì có cội nguồn trong tình yêu của Chúa Cha và mới mẻ vì đối tượng của tình yêu đã thay đổi. Từ này “Yêu mến Thiên Chúa” trong Cựu ước (Đnl 6,5) trở thành “yêu mến Đức Giêsu” trong Tin Mừng Gioan (Ga 14,15-26), và “Yêu thương người thân cận” trong dân Ít-ra-en (Lv 19,18) trở thành “yêu thương lẫn nhau” trong cộng đoàn các môn đệ Đức Giêsu. Sự mới mẻ cũng thể hiện ở chủ thể ban điều răn. Chủ thể của “điều răn mới” là Đức Giêsu chứ không phải là Thiên Chúa như trong Cựu ước. Sự mới mẻ này đánh dấu giai đoạn mới trong lịch sử cứu độ.
Từ câu chuyện và tìm ý nghĩa lời trăn trối của Đức Giêsu, chúng ta có thể thấy được giá trị của tình yêu. Có thể nói rằng, nếu thế giới này thiếu vắng tình yêu thì sẽ đi đến đảo lộn. Con người sống thiếu vắng tình yêu thì sẽ dẫn đến lo sợ, đau khổ và hận thù. Chính vì thế, Đức Giêsu, Thiên Chúa mà chúng ta tin, chúng ta tôn thờ đã để lại một lời trăn trối bất hủ và cần thiết cho nhân loại, cho mọi nơi và mọi thời. Bởi thế, điều răn yêu thương của Đức Giêsu là một lời từ biệt làm thay đổi thế giới.
Tại sao chúng ta phải yêu thương? Thưa rằng, thế giới và nhân loại này được dựng nên bởi và do Tình Yêu. Nguồn gốc phát xuất của thế giới và nhân loại là tình yêu, do đó vũ trụ và nhân loại sống cần phải có tình yêu. Yêu thương là nguồn nhựa sống, là mạch máu chủ đạo cho thế giới và con người. Con người không chỉ sống yêu thương mà còn có bổn phận xây dựng, nâng cấp tình yêu cho đúng với Tin Mừng và hợp với thời đại.
Chính vì thế, trong Lễ Hiện Xuống ngày 17 tháng 5 năm 1970, tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha Phaolô VI đã công bố một "nền văn minh tình thương". Con người chỉ được coi là văn minh khi con người bước ra khỏi sự độc ác, ghen ghét và hận thù; khi mọi người biết sống yêu thương chia sẻ và nhìn nhận người khác cũng như mình; bất chấp những khác biệt về chủng tộc, màu da, tôn giáo, quan điểm chính trị hay xã hội… Xây dựng một nền văn minh dựa trên tình thương đó là bổn phận cấp bách của con người nói chung, và cách đặc biệt cho người Kitô hữu hôm nay. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nêu gương cho chúng ta một nền văn minh tình thương bằng hành động là, sống vì người nghèo, cho người đau ốm tàn tật, với những người đang bị xã hội loại bỏ và sống yêu thương đến môi trường.  
Đức Giêsu đã coi tình yêu thương giữa các Kitô hữu là một dấu chỉ để mọi người nhận ra họ là môn đệ đích thực của Ngài. Nói cách khác, có thể định nghĩa môn đệ là những người biết yêu thương nhau. Yêu thương nhau vốn là nét đặc trưng của các tín hữu thời Giáo hội sơ khai và của mọi thời, nhằm phản ánh tình yêu của Đức Giêsu cho thế giới. Bản chất của người môn đệ là yêu thương. Nhưng trong thực tế các Kitô hữu ngày nay vẫn chưa sống trọn vẹn điều răn mới này. Có biết bao tranh chấp, đã và đang xảy ra trên thế giới, giữa những anh chị em Kitô hữu với nhau. Không những vậy, ngày càng có nhiều người rời bỏ cộng đoàn Kitô hữu vì, như họ nói, họ không cảm nghiệm được tình yêu trong đó do tình trạng bè phái, quan cách và quyền lực giữa các thành viên. Thay vì một tinh thần hăng say dấn thân lên đường như trong sách Công vụ trong bài đọc một (Cv 14,24-26), họ lại chỉ cảm thấy sự cô lập, não trạng bảo thủ và né tránh. Chẳng phải vì chúng ta sống thiếu yêu thương bác ái, hay họ bỏ đi là do thế gian lôi kéo mạnh hơn chúng ta sao? Hay chẳng phải họ rời bỏ là vì cộng đoàn, giáo xứ của chúng ta thiếu cởi mở, thiếu yêu thương và đón nhận sự khác biệt sao? Phải chăng, dấu ấn Kitô hữu chưa thực sự thấm nhuần và in vào đời sống chúng ta, chưa đưa chúng ta vượt lên trên những bất đồng và dị biệt về nhiều mặt?
Anh chị em hãy yêu thương nhau. Chúa Giêsu phục sinh vẫn muốn nhắc lại mãi điều răn này cho từng Kitô hữu chúng ta. Tình yêu không chỉ vắng bóng trên thế giới, mà đôi khi còn vắng bóng cả trong tâm hồn từng người, nơi các cộng đoàn dòng tu, giáo xứ chúng ta ngày hôm nay. Vì thế, gia đình, giáo xứ, dòng tu, các hội đoàn và các hội thánh Kitô giáo trên khắp thế giới được mời gọi sống yêu thương như lời chứng cho nhân loại hôm nay thấy một Thiên Chúa Tình Yêu. Giữa một thế giới bị phân hoá và đỗ vỡ, thì tình yêu nơi những Kitô hữu cho thấy sức mạnh hiệp nhất của Chúa Phục Sinh. Yêu thương chính là nguồn suối chảy đến từng người trong thế giới, là những bóng mát cho những nơi đang sống trong cảnh khô hạn và chói chang của dối trá và tham lam, và yêu thương sẽ làm con người cảm nhận được sự bình an, hạnh phúc và liên đới với nhau trong niềm hy vọng. Đặc biệt, yêu thương chính là dấu chỉ để nhân loại nhận ra anh (chị) em là môn đệ của Thầy (Ga 13,35).


Nam sinh lớp 12 'bắt bệnh' nền giáo dục


Sau khi cho rằng chỉ cần học đến lớp 9 là đủ, nam sinh hùng biện: "Đừng bỏ tiền ra và mất 10 năm để mua một cái giấy thông hành mà chính mỗi người phải được đào tạo để trở thành người lái tàu cho chính cuộc đời mình".

Những ngày qua, video "Sự trăn trở của một kẻ lười biếng" trở thành đề tài gây tranh cãi trên mạng. Trong hơn một tiếng, nam sinh tự giới thiệu học lớp 12 đã phân tích nhiều vấn đề của ngành giáo dục như ôm đồm, nặng về ứng thí, thành tích, giáo viên chưa làm tốt nhiệm vụ...
Với giọng nói có điểm nhấn, lưu loát, nam sinh cho rằng, không có gì gọi là mới mẻ khi than vãn kiến thức thừa ở THPT hiện nay. "Con người ta sinh ra là khác nhau, tại sao tất cả lại phát triển theo cùng một hướng giống nhau? Phải chăng chúng ta đang quy quá nhiều kiến thức vào hai chữ 'cơ bản'?", nam sinh đặt câu hỏi và tự trả lời: "Nếu có người hỏi tôi kiến thức học đến lớp mấy là đủ, tôi trả lời là lớp 9, vì tôi tin rằng tuổi 14, 15 xác định được mục tiêu nghề nghiệp của mình".
Cậu giải thích, có người muốn làm lập trình viên, đầu bếp nhà hàng, giám đốc ngân hàng, thiết kế thời trang, thậm chí Bộ trưởng Giáo dục, đâu phải nghề nào cũng cần biết đến phương trình chuyển động? Một kỹ sư vật lý liệu có cần phân tích hình tượng nghệ thuật trong một bài văn? Một nhà văn có cần biết phương trình của một loạt các phản ứng hóa học? "Tôi không tin có một nghề nào cần đến toàn bộ kiến thức THPT".
Nam sinh trong clip "Sự trăn trở của một kẻ lười biếng". Ảnh cắt từ clip.
Theo nam sinh này, đánh giá nhau không quan trọng là anh biết được bao nhiêu, mà là anh làm được bao nhiêu với những gì anh biết. Học về thuyết lượng tử ánh sáng mà không lắp được bóng đèn thì học làm gì? Học về phương pháp lai phân tích, quy luật di truyền mà trồng một cái cây không lớn nổi thì học làm gì? Kiến thức chỉ có ích khi áp dụng vào thực tiễn, dù là lao động trí óc hay chân tay. Học phải đi đôi với hành, có hành mới có hứng...
"Đến giờ tôi nhớ, không có một giáo viên nào đề cập được mục đích thực dụng của môn học đó. Họ chỉ nói hãy học đi, phải học tiếp mới chọn được con đường cho mình", cậu nói và cho rằng, trong cộng đồng đều có người giỏi ở lĩnh vực này, người khá ở lĩnh vực kia và không cần đến một thế hệ biết đầy đủ mọi thứ, chỉ cần cộng hưởng với nhau để cùng phát triển một cách tốt nhất. Khi vào đại học, những trường khác nhau học kiến thức khác nhau, kiến thức cấp 3 dần trở nên vô nghĩa.
Một hiện thực, mục đích cao cả của việc học là trang bị năng lượng sống đang bị biến dạng thành một mục tiêu khác là học để thi, để kiểm tra, để không bị tách rời số đông, học để được an toàn, học để có một cái bằng, để người ta nhìn mình với con mắt bao dung hơn.
Rồi cậu nhấn mạnh: "Giáo dục chính là bản thân cuộc sống. Học là để phục vụ nhu cầu cuộc sống, học là để trở thành người có văn hóa, học những thứ cần thiết và có ích cho hiện tại, tương lai, không học những thứ vô ích chỉ giúp chúng ta sở hữu những tờ giấy vô dụng. Đừng bỏ tiền ra và mất 10 năm để mua một cái giấy thông hành mà chính mỗi người phải được đào tạo để trở thành người lái tàu cho chính cuộc đời mình".
Xem clip trên, một chuyên gia giáo dục cho rằng, nội dung mà nam sinh đề cập không mới so với nhiều ý kiến đóng góp trước đó. Bên cạnh những phân tích đúng đắn, nhiều vấn đề còn nhìn hời hợt, thiếu sự cân đối.
Về giáo dục toàn diện, người này đặt câu hỏi "Sao lại bắt ai cũng phải học giống ai"? Nhưng theo chuyên gia này, giáo dục toàn diện đang bình quân chủ nghĩa, chưa phát huy được năng lực từng người, còn chương trình phổ thông cung cấp cho học sinh có đủ phông văn hóa để tiếp tục học những kiến thức chuyên sâu.
Đồng quan điểm, nguyên Vụ trưởng Giáo dục Tiểu học Nguyễn Kế Hào bày tỏ, nền giáo dục hiện nay có rất nhiều vấn đề và các chuyên gia đã nói trong các cuộc họp. Tuy nhiên, nếu chỉ học hết lớp 9 thì kiến thức phổ thông sẽ thiếu hụt rất nhiều, nền giáo dục sẽ trở nên què quặt và học sinh không đủ phông văn hóa cần thiết. Việc đổi mới nền giáo dục cũng cần làm từng bước bởi giáo dục không tách rời mà gắn liền với nền kinh tế, xã hội của đất nước.
"Em học sinh đã nói được rất nhiều điểm đúng nhưng nhiều vấn đề còn thiếu tính xây dựng. Các em có thể đặt mình vào vị trí tòa án nhưng ý kiến phải góp phần cải tạo chứ không được thiếu tính xây dựng và khiến những người làm giáo dục bị xúc phạm", vị Vụ trưởng từng từ chức để phản đối chương trình sách giáo khoa mới của Bộ GD&ĐT năm 2002 nói.
Còn thầy giáo Văn Như Cương nhận định, nội dung được trình bày trong clip cơ bản đúng nhưng một số nhận định còn hơi quá. Cụ thể, nền giáo dục ứng thí đúng là chưa giúp ích nhiều cho cuộc sống, một số kiến thức chưa thực sự có ích với mỗi cá nhân nhưng không nên nhìn nhận theo hướng cực đoan. Ở môn toán, định lý Pytago dường như không ứng dụng trong thực tế, nhưng nó lại giúp học sinh rèn luyện tư duy toán học, có ích rất nhiều đối với người lãnh đạo, quản lý.
"Nếu nói rằng những kiến thức toán học là không cần thiết, và không cần học môn toán nữa vì mọi người có thể dùng máy tính để thay thế?", PGS Toán học nói và phán đoán, dường như clip trên không phải là sản phẩm của một người, nhất là một học sinh lớp 12 mà có thể là ý kiến của một nhóm người.
Mặc dù vậy, thầy và một số chuyên gia cũng đồng quan điểm nam sinh trên đã có bài thuyết trình nêu bật những điểm chưa được của nền giáo dục. Tuy nhiên, học sinh này chỉ thiên về chê mà không hiến kế. Một nhà giáo cho rằng, nam sinh này nên góp ý thẳng thắn với Bộ Giáo dục trên các diễn đàn, hội nghị. Đề án đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đổi mới chương trình sách giáo khoa cũng đang tiếp nhận ý kiến của người dân để hoàn thiện đề án.
Kiều Trinh

ĐTC Phanxicô: Một tháng trong cương vị Giáo hoàng


Thế là đã một tháng trôi qua, sau ngày vị Giáo Hoàng thứ 266 của Giáo Hội Công giáo cất tiếng chào toàn thể thế giới tại quảng trường thánh Phê-rô. Chỉ với một thời gian ngắn, nhưng cái tên Đức Thánh Cha Phanxicô đã đi vào trái tim của nhiều người. Ngài đã làm rung động trái tim họ với sự đơn sơ, khiêm tốn và nhân hậu. Tất cả tín hữu Giáo Hội Công Giáo trên toàn thế giới vui mừng tạ ơn Thiên Chúa vì đã ban Đức Thánh Cha Phanxicô cho Giáo hội trong thời điểm khó khăn này. Ngay từ lần gặp đầu tiên, ngài để lại dấu ấn trong lòng mọi người khi xin những người hiện diện tại Quảng trường thánh Phê-rô cầu nguyện cho vị Giám Mục Rô-ma của họ, trước khi ban phép lành cho họ.

Một ngày sau khi đắc cử, Đức Thánh Cha đã đến Vương Cung Thánh Đường Đức Bà Cả để cầu nguyện. Vị Giám Mục Rô-ma mang theo một bó hoa nhỏ để dâng kính Đức Mẹ. Một cử chỉ đơn sơ nhưng thể hiện lòng sùng kính Đức Mẹ của vị Tân Giáo hoàng. Vào buổi chiều hôm đó, đức Tân Giáo Hoàng đã cử hành thánh lễ đầu tiên tại nhà nguyện Sistina với các Hồng y tham dự Mật nghị. Trong bài giảng của mình, ngài nói về ba động từ: bước đi, xây dựng và tuyên xưng. Ngài khẳng định rằng: trung tâm điểm đời sống của người môn đệ chính là thập giá Đức Kitô. Ngài nhấn mạnh:

Khi chúng ta bước đi mà không có Thánh Giá, khi chúng ta xây dựng mà không có Thánh Giá và khi chúng ta tuyên xưng một Đức Ki-tô không có Thánh Giá, chúng ta không phải là môn đệ của Chúa: chúng ta là những người trần tục, chúng ta là Giám mục, Linh mục, Hồng y, Giáo hoàng, nhưng không phải là môn đệ của Chúa. (Bài giảng trong thánh lễ với các Hồng y, ngày 14 tháng 3- Bản Dịch của Cha Vương Đình Khởi, ofm)

Trong những ngày sau đó, khi giải thích lý do tại chọn Thánh Phanxicô Át-xi-di làm đấng bảo trợ cho triều đại giáo hoàng của mình, ngài đã cho thấy tình yêu đặc biệt của mình dành cho người nghèo, những người nghèo khổ nhất.

Và hai chữ “người nghèo” đã nhập cuộc ở đây. Rồi bỗng nhiên sự liên hệ tới người nghèo làm tôi nghĩ tới thánh Phanxicô At-xi-di. Rồi tôi nghĩ tới chiến tranh, …Và Phan-xi-cô là người của hòa bình. Và như thế cái tên Phan-xi-cô đã đi vào lòng tôi: Phan-xi-cô At-xi-di (Gặp gỡ các nhà báo, ngày 16 tháng 03- Bản dịch của Cha Nguyễn Công Đoan, sj).

Đức Thánh Cha Phanxicô trải qua Chúa Nhật đầu tiên như một cha xứ bình thường. Ngài dâng lễ tại một giáo xứ nhỏ trong khuôn viên của Tòa thánh. Sau thánh lễ, ngài đã đứng ở cửa ra vào khoảng 30 phút để chào thăm tất cả mọi người tham dự thánh lễ. Dù thời gian đã khá muộn, nhưng ngài vẫn muốn nán lại để gặp gỡ hết mọi người. Dường như ngài khao khát ôm trọn toàn thể con chiên của mình, đặc biệt là những người nhỏ bé và yếu đuối nhất. Sau đó, đúng 12 giờ trưa, trong buổi đọc Kinh truyền tin đầu tiên, trước hơn 100 ngàn tín hữu, Ngài đã say sưa nói về lòng thương xót Thiên Chúa – một chân lý đức tin tuyệt đẹp đối với đời sống Kitô hữu chúng ta.

Thiên Chúa không bao giờ mệt mỏi tha thứ cho chúng ta, không bao giờ! Và vấn đề của chúng ta là gì? Thưa, vấn đề là chúng ta chán nản, chúng ta không muốn, chúng ta không mong muốn sự tha thứ. Ngài không bao giờ bỏ cuộc, không bao giờ! Thiên Chúa là người cha yêu thương luôn tha thứ. Ngài có một trái tim đầy lòng thương xót dành cho tất cả chúng ta (Angelus, 17 tháng 3).

Hai ngày sau đó, vào ngày lễ kính thánh Giuse, bổn mạng của Giáo Hội Hoàn Vũ, Đức Thánh Cha đã cử hành Thánh Lễ Khai Mạc sứ vụ Phê-rô của mình. Trước thánh lễ, Đức Thánh Cha đi bằng xe jeep mui trần để chào thăm các tín hữu. Thỉnh thoảng ngài dừng lại để chúc mừng các tín hữu và ôm hôn các trẻ em. Rồi khi nhận ra có một người khuyết tật phía trước, ngài đã bước xuống xe, ôm hôn và chúc lành cho anh. Đức Thánh Cha thật gần gũi, ngài như một người cha, muốn ôm hôn con mình với tất cả tình yêu mến. Trong bài giảng, khi nói về sứ mạng của thánh Giuse, ngài liên hệ đến sứ mạng của chính ngài, đó là sứ mạng bảo vệ con người, bảo vệ nhau và bảo vệ toàn thể tạo vật. Và như thế, quyền bính của Giáo Hoàng cũng như toàn thể chúng ta lãnh nhận từ Thiên Chúa là để phục vụ. 

“Chúng ta đừng bao giờ quên rằng quyền bính đích thực là sự phục vụ, và cả Giáo Hoàng nữa, để thi hành quyền bính, cũng phải ngày càng tiến sâu hơn vào sự phục vụ đó với đỉnh cao sáng chói của nó nơi Thánh Giá”(Bài giảng trong Thánh lễ Khai mạc sứ vụ Phê-rô, ngày 19 tháng 3 - Bản Dịch của Cha Vương Đình Khởi, ofm).

Một trong những công việc phục vụ con người mà ngài phải thực thi đó là trở thành người bắc nhịp cầu, người thăng tiến hòa bình. Thánh Phanxicô At-xi-di là người xây dựng hòa bình, và khi chọn danh hiệu Phanxicô, Đức Thánh Cha đã muốn đi theo con đường của thánh nhân. Đây là điều mà ngài tâm niệm và ao ước thực thi với trọn con tim mình. Trong buổi tiếp kiến với các đoàn ngoại giao cạnh Tòa Thánh, ngài đã chia sẻ:

Chính vì thế tôi ước mong rằng cuộc đối thoại giữa chúng ta sẽ giúp xây dựng nhịp cầu nối kết con người, theo cách thức mà mọi người có thể nhận ra nơi người khác không phải là kẻ thù, không phải là một địch thủ, nhưng là một người anh, người chị được chào đón và yêu thương (Gặp gỡ các Đoàn ngoại giao, ngày 22 tháng 3).

Một ngày sau, một sự kiện đã đi vào sử sách: Đức Thánh Cha Phanxicô gặp Đức Biển Đức 16 tại Castel Gandolfo. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Giáo hội một Giáo hoàng ôm hôn Giáo hoàng danh dự. “Lần đầu hai Giáo Hoàng chung một bàn quỳ trước mặt Chúa Giêsu Thánh Thể trong Nhà Tạm, lần đầu hai Giáo Hoàng ngồi nói chuyện với nhau, lần đầu hai Giáo Hoàng ngồi ăn với nhau”. Cuộc gặp gỡ này trở nên đặc biệt hơn khi nó diễn ra vào thứ bảy trước khi bước vào tuần thánh. Hôm sau, vào ngày Chúa Nhật Lễ Lá, với sự hiện diện đông đảo các tín hữu, đặc biệt là các bạn trẻ, Đức Thánh Cha đã lên tiếng khích lệ họ:

Chúng ta đừng để bị cướp đi niềm hy vọng! Chúng ta đừng để bị tước mất niềm hy vọng! Niềm hy vọng chính Chúa Giêsu ban cho chúng ta! (Chúa Nhật Lễ lá, 24 tháng 03).

Vào ngày thứ 5 Tuần thánh, tại một nhà nguyện nhỏ và đơn sơ trong nhà tù, Đức Thánh Cha đã tự mình làm những cử chỉ mà Đức Giê-su đã thực hiện hơn 2000 năm trước. Ngài đã cúi xuống để rửa chân cho 12 thiếu niên, trong đó có hai thiếu nữ và hai người Hồi giáo. Sau khi rửa chân, ngài lau sạch và hôn chân của các em, ngài đã thực hiện một cách hữu hình và sống động điều ngài đã từng nói: “người làm lớn nhất, phải là người phục vụ”. Vào buổi sáng hôm đó, Đức Thánh Cha đã dâng thánh Lễ Dầu với hàng giáo sĩ trong giáo phận của ngài. Trong bài giảng, ngài mời gọi mọi người hãy ra khỏi mình để đi vào các biên cương, nơi con người phải chịu đau khổ nhất. Một người mục tử tốt lành phải là người biết và hiện diện với con chiên của mình.

Đây là điều tôi xin anh em: anh em hãy làm những mục tử với “hương thơm của đoàn chiên”, hương thơm này phải được người ta cảm nhận (Bài giảng trong Thánh lễ Dầu, ngày 28 tháng 03).

Và một người mục tử cần biết rằng “Thập giá của Đức Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nơi đó Thiên Chúa đã chiến thắng sự dữ của thế gian”. Đó là lời Đức Thánh Cha đã nói tại buổi đi đàng Thánh Giá trọng thể tại Hí trường Colosseo vào ngày thứ sáu Tuần thánh. Đó chính là nguồn mạch hy vọng của mọi người Kitô hữu, vì nhờ tình yêu, Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết. Và trong niềm vui Phục sinh, Đức Thánh Cha Phanxicô đã tuyên bố cho toàn thể thế giới rằng: Đức Giê-su đã sống lại. Và ngài nhắn nhủ với mọi tín hữu rằng, hãy để Đức Giê-su phục sinh biến đổi đời sống mình.

Chúng ta hãy đón nhận ân sủng của Đức Giê-su phục sinh! Hãy để cho lòng từ bi của Thiên Chúa đổi mới chúng ta, hãy để cho Đức Giê-su yêu thương chúng ta, hãy để cho đời sống chúng ta được biến đổi nhờ vào quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. Và chúng ta hãy trở thành khí cụ của lòng từ bi ấy, trở thành những máng thông chuyển qua đó Thiên Chúa tưới gội trái đất, bảo vệ toàn thể công trình sáng tạo và làm cho công chính và hòa bình được nở hoa (Sứ Điệp Phục Sinh, ngày 31 tháng 03).

Trong niềm vui phục sinh, Ngài mời gọi mọi tín hữu hãy đi truyền giảng Tin Mừng, đó là sứ mạng của mọi người. Trong buổi Yết kiến chung ngày 3 tháng 4, ngài nhắn nhủ cách riêng với các người nữ rằng:

Điều này thật đẹp, và điều này nói lên sứ mạng của những người nữ, các bà mẹ. Hãy nêu chứng tá cho con cháu của mình rằng Chúa Giê-su đang sống, Ngài hằng sống, Ngài đã chỗi dậy. Các bà mẹ và các chị phụ nữ, hãy tấn tới với chứng tá ấy! (Yết kiến Chung, ngày 03 tháng 04).

Cuối cùng, vào ngày hôm qua, 12 tháng 4, sau một tháng trên cương vị Giáo Hoàng, Đức Thánh Cha Phanxicô đã gặp gỡ và cảm ơn Đức Hồng Y Quốc Vụ Khanh và toàn thể nhân viên làm việc trong Phủ Quốc Vụ Khanh, với những lời lẽ đơn sơ diễn tả tâm tình biết ơn của ngài như sau:

Tôi biết rằng trong những ngày này – ngày mai là tròn một tháng – anh chị em đã phải làm việc cật lực hơn, và cũng làm thêm nhiều giờ hơn. Và anh chị em không được trả thêm cho những giờ “tăng ca” này, vì anh chị em đã làm việc bằng cả tấm lòng mình và điều ấy chỉ có thể được trả bằng lời “cảm ơn”, một lời “cảm ơn” đến từ sâu thẳm con tim, đúng không? Vì thế hôm nay tôi muốn đến đây để chào thăm và cảm ơn từng người một vì tất cả công việc mà anh chị em đã làm. 

Tạ ơn Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội Công Giáo Đức Thánh Cha Phanxicô. Chúng ta cùng cầu nguyện cho Đức Thánh Cha, xin Chúa đồng hành và chúc lành cho ngài và cho sứ mạng của ngài trọng nhiệm vụ dẫn dắt Giáo hội là Hiền thê của Đức Giê-su. Lạy Mẹ Maria là Mẹ của Giáo Hội, xin Mẹ luôn gìn giữ và nâng đỡ Đức Thánh Cha.
Nguyễn Minh Triệu sj

Vui buồn của tuổi già, những suy tư của Đức Bênêđictô, mấy tháng trước khi công bố từ nhiệm

Ngày 12 tháng 11 năm 2012, nhân dịp viếng thăm một nhà dưỡng lão tại Rôma do Cộng Đồng Sant’Egidio trông coi, Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI đã có những suy tư sau đây về những nỗi vui buồn của tuổi già, phần nào cho thấy những dấu chỉ dẫn tới việc ngài quyết định từ nhiệm.

Tôi đến với anh chị em không những trong tư cách giám mục Rôma, mà còn trong tư cách một người già đi thăm những người bạn già nữa. Quả là dư thừa khi nói rằng tôi rất quen thuộc với những khó khăn, những nan đề và giới hạn của lớp tuổi này, nhưng tôi biết rõ: với nhiều anh chị em các khó khăn này càng thấm thía hơn do khủng hoảng kinh tế. Đôi khi, vào một độ tuổi nào đó, ta bỗng nuối tiếc nhìn lại những năm tháng thanh xuân khi mình còn tươi trẻ và dự tính nhiều cho tương lai. Bởi thế, đôi khi nét mặt ta phủ đầy một vẻ buồn trước cái viễn tượng hoàng hôn của cuộc đời này. 

Nhưng sáng nay, lên tiếng với mọi người cao niên trong tinh thần, dù biết rõ các khó khăn của tuổi già chúng ta, tôi vẫn muốn nói với anh chị em một cách đầy xác tín rằng: già quả là đẹp! Ở mọi giai đoạn của cuộc đời, điều cần là có khả năng nhìn thấy sự hiện hữu và chúc lành của Chúa cũng như các phong phú do chúng mang tới. Ta không bao giờ được để mình bị buồn sầu vây hãm! Ta đã và đang tiếp nhận được ơn trường thọ. Sống ngay trong độ tuổi của ta vẫn là điều tươi đẹp, bất chấp những đau cùng đớn và một số giới hạn nào đó. Ước mong sao trên nét mặt ta luôn có niềm vui vì cảm thấy được Chúa thương yêu, chứ không phải nỗi buồn. 

Trong Thánh Kinh, trường thọ luôn được coi là hồng phúc của Chúa; ngày nay, hồng phúc này khá phổ biến và được coi như một hồng phúc đáng được trân quí và vận dụng bao nhiêu có thể. Ấy thế mà cái xã hội bị khống chế bởi luận lý học hiệu năng và lợi lộc này thường lại không muốn chấp nhận nó như thế: trái lại, xã hội này thường bác bỏ nó, vì coi người già như là vô dụng, thiếu sản xuất. Rất nhiều khi ta được nghe nói tới những nỗi đau của những người bị cho ra rìa, sống xa nhà và đầy cô đơn. Tôi nghĩ cần phải có nhiều dấn thân hơn, bắt đầu từ gia đình và các định chế công cộng, để bảo đảm cho người già có khả năng ở lại nhà mình. Cái khôn ngoan của đời sống mà chúng ta là những người đem theo quả là một kho tàng lớn lao. 

Phẩm chất của một xã hội, hay của một nền văn minh, cũng được phán định dựa vào cung cách nó xử sự với người già và vị trí nó dành cho họ trong đời sống của cộng đồng. Những cộng đồng nào biết dành vị trí cho người già đều là những cộng đồng biết dành vị trí cho sự sống! Cộng đồng nào biết chào đón người già cũng là cộng đồng biết chào đón sự sống!... Khi sự sống trở thành mỏng dòn trong những năm tháng già nua, nó vẫn không bao giờ mất giá trị và phẩm vị: ở bất cứ giai đoạn cuộc sống nào mỗi người trong chúng ta đều được Thiên Chúa mong muốn và yêu thương, mỗi một chúng ta đều quan trọng và cần thiết.

Các bạn thân mến, vào độ tuổi này, ta hay cảm thấy cần có sự giúp đỡ của người khác; và điều này cũng xẩy ra cho vị giáo hoàng của các bạn. Trong Tin Mừng, ta đọc thấy Chúa Giêsu nói với Thánh Phêrô: “khi con còn trẻ, con tự thắt lấy dây lưng và muốn đi đâu thì đi; nhưng lúc về già, con sẽ phải chìa tay ra để người khác thắt dây lưng cho con và dẫn con đi nơi con chẳng muốn” (Ga 21:18). Chúa có ý nói tới cách Thánh Phêrô sẽ phải làm chứng cho đức tin đến độ phải tử vì đạo, nhưng câu ấy khiến chúng ta nghĩ tới sự kiện này: cần người khác giúp đỡ vốn là thân phận của người già chúng ta. Tôi chỉ xin các bạn tìm thấy ơn Chúa trong thân phận ấy, bởi vì được nâng đỡ và được đồng hành, cảm nhận được tình âu yếm của người khác quả là một ơn phúc! Điều này quan trọng đối với mọi giai đoạn của cuộc sống: không ai sống được một mình mà không cần người khác giúp đỡ; con người là hữu thể có tương quan. Và trong tình thế này, tôi vui mừng nhận thấy: những người giúp đỡ và những người được giúp đỡ đã tạo thành một gia đình mà sinh huyết chính là tình yêu. 

Anh chị em cao niên thân mến, ngày giờ xem ra dài và trống rỗng quá, với thật nhiều khó khăn, ít cam kết và gặp gỡ; nhưng anh chị em đừng bao giờ chán nản trong lòng: anh chị em làm cho xã hội phong phú, ngay cả trong đau đớn và bệnh hoạn. Và giai đoạn này của cuộc sống vẫn là một hồng phúc để ta thâm hậu hóa mối liên hệ với Thiên Chúa… Anh chị em đừng quên rằng một trong các tài nguyên vô giá của anh chị em là tài nguyên cầu nguyện: trở thành những người cầu bầu với Thiên Chúa, cầu nguyện với đức tin và sự kiên định. Anh chị em hãy cầu nguyện cho Giáo Hội, và cầu nguyện cho tôi, cho nhu cầu thế giới, cho người nghèo, để không còn bạo lực trên thế giới. Lời cầu nguyện của người già có thể che chở được thế giới, giúp đỡ thế giới, có khi còn hữu hiệu hơn là sự lo lắng của tập thể. Hôm nay, tôi muốn ủy thác cho anh chị em việc cầu nguyện cho thiện ích Giáo Hội và cho hòa bình thế giới. Vị giáo hoàng này yêu mến anh chị em và trông cậy vào mọi người trong anh chị em! Ước mong anh chị em cảm nhận được tình yêu của Thiên Chúa và biết cách đem tia lửa yêu thương của Chúa cho xã hội chúng ta, một xã hội thường quá cá nhân chủ nghĩa và chỉ chuộng hiệu năng. Và Thiên Chúa sẽ luôn luôn ở với anh chị em và với mọi người đang trợ giúp anh chị em với tấm tình âu yếm và tận tụy của họ.

Vũ Văn An