Karl Rahner, Joseph Ratzinger và Vatican II


Với việc tham gia của họ vào Công Đồng Vatican II, hai nhà thần học Đức đã trở thành chủ yếu trong việc lên khuôn Đạo Công Giáo hiện đại, ít có ai sánh bằng. Đó là Karl Rahner và Joseph Ratzinger. Cả hai cộng tác với nhau trong nhiều vấn đề quan trọng về thần học và Giáo Hội học, nhưng sau Công Đồng, họ đã như thể anh đi đường anh tôi đi đường tôi và không thiếu người cho rằng người thay dạ đổi lòng chính là Joseph Ratzinger, Giáo Hoàng Bênêđíctô XVI tương lai. Sự thay đổi này không ngừng làm người Công Giáo ngày nay bỡ ngỡ và đáng để ta khảo sát. Trong bài này, chúng ta thử xét xem sự phát triển tư duy của hai nhà thần học này trước, trong và sau Vatican II diễn tiến ra sao và có thực là thần học gia Joseph Ratzinger thay dạ đổi lòng như có người nghĩ không. 

Bảo thủ và cấp tiến

Từ những ngày đầu của Vatican II, khi các nghị phụ từ chối không chịu thảo luận các sơ đồ phần lớn do Giáo Triều soạn thảo, người ta đã có cảm tưởng chung là tại Công Đồng có hai khối đối nghịch nhau trong quan niệm về tương lai Giáo Hội. Theo tương truyền, khối bảo thủ đã thất bại trong cố gắng duy trì nguyên trạng chỉ vì sự đoàn kết áp đảo của khối cải cách cấp tiến.

Tuy có đúng một phần, nhưng ý niệm cho rằng phe cải cách cấp tiến nhất trí với nhau về mọi vấn đề thiết tưởng chỉ là một cường điệu. Vì xét cho cùng, các văn kiện của Công Đồng vẫn còn rất lưỡng nghĩa: người ta tiếp tục sử dụng cùng một sắc lệnh để biện luận cho những chủ trương hoàn toàn trái ngược nhau. Sự kiện ấy chứng tỏ những nhất trí tổng quát tại Công Đồng khó có thể diễn dịch thành những nhất trí chung trong mọi chi tiết. Những lá phiếu nhất trí ở bên này hay bên kia đường ranh vẫn cho thấy nhiều ý kiến dị biệt trong số 2,500 nghị phụ tại Vatican II. Quan niệm dai dẳng về một mặt trận đồng nhất gồm các giám mục và thần học gia cố gắng dẫn đưa Giáo Hội vào thời hiện đại chống lại các vị bảo thủ gan lì chỉ càng làm ta khó có thể lượng giá được các tranh cãi sau Công Đồng giữa những đồng minh cũ tại cùng một Công Đồng này. Người ta có thể thắc mắc: làm thế nào một vị trước đây chủ trương cải cách bỗng nhiên lật ngược thế cờ, đi ủng hộ những quan điểm mà Đức HY Ottaviani từng hết lòng bảo vệ? Tất nhiên, chỉ có sự thay đổi là không thay đổi mà thôi, nhưng phản bội các xác tín trước đây của mình để ủng hộ các đối thủ cũ là điều ít thấy. Ấy thế mà người ta đã cay đắng bảo rằng đó là tác phong của thần học gia Joseph Ratzinger, người từng tham gia Công Đồng Vatican II trong tư cách chuyên viên và đã góp phần lên khuôn Giáo Hội Công Giáo trong suốt hơn 40 năm qua. 

Đối với Đức Bênêđíctô, Vatican II chắc chắn đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp vốn đã sáng chói của ngài. Lúc Công Đồng bắt đầu nhóm họp, ngài mới 35 tuổi, nhưng đã giữ hai ghế giáo sư tại hai đại học danh tiếng của Đức. Tuy nhiên, với Công Đồng, ngài nổi tiếng khắp thế giới, mau chóng trở thành người hỗ trợ mạnh mẽ nhất của phong trào về nguồn (ressourcement) và hợp tác với các tên tuổi vốn được coi là đồng nghĩa với nền thần học mới (nouvelle théologie).

Một trong các tên tuổi ấy chính là Karl Rahner, hơn Ratzinger tới 23 tuổi, lúc tới Công Đồng làm chuyên viên đã nổi tiếng giữa các giới Công Giáo khắp thế giới. Phương thức mới mẻ của nhà thần học này, nói chung, được nhiều người ủng hộ, nhưng đối với Giáo Triều vốn theo khuynh hướng bảo thủ, thì ngài không được hoan nghinh bao nhiêu. Trong suốt hơn bốn năm tại Công Đồng, cả hai nhà thần học này đều xuất hiện như những tiếng nói gây ảnh hưởng, để lại dấu ấn nơi nhiều văn kiện chính của Công Đồng. Họ tiếp tục việc hợp tác vốn đầy hiệu quả với nhau, một việc hợp tác từng bắt đầu trước khi có Công Đồng và đã cùng nhau viết nhiều bài vở và cuốn sách về các chủ đề cấp thiết của thần học và Giáo Hội học. Ấy thế nhưng, dù việc đích thân can dự của họ mật thiết liên kết với nền thần học aggiornamentocủa Vatican II, đường họ theo đuổi thời hậu công đồng chưa bao giờ lại phân rẽ đến thế. Với Rhaner, đối tượng hàng đầu của mọi thần học sau Vatican II phải là tìm cách chuyên chở Kitô Giáo, được coi như có ý nghĩa, đến những người lớn lên trong một thế giới bị kiến thức thực nghiệm thống trị. Mãi mãi là nhà thần học và thầy dạy mục vụ, Rahner theo đuổi mục đích đối thoại với những người ở bên ngoài Giáo Hội và tái lên khuôn tín lý Kitô Giáo qua các trước tác của mình. 

Trái lại, Ratzinger càng ngày càng thấy khó chịu trước hiện tượng bị ngài coi là giải thích sai các ý hướng của Vatican II. Lo âu rằng Giáo Hội có thể đi quá xa theo chiều hướng nhượng bộ thế giới hiện đại và do đó làm hại tới căn tính Kitô Giáo đích thực của mình, ngài tìm cách duy trì đặc điểm nguyên thủy của nó. Kết cục, ngài đã trở thành giám mục Munich, nhận mũ Hồng Y, và sau đó không lâu đáp lời mời của Đức Gioan Phaolô II tới Vatican đứng đầu Bộ Giáo Lý Đức Tin. Trong chức vụ này, một chức vụ ngài nắm giữ trong hơn 20 năm, ngài đã đưa ra nhiều quyết định không được ưa chuộng, khiến thế giới và những ai quen biết ngài ở Vatican II hết sức ngạc nhiên. Thế là hai người có tham vọng tạo nên một Đạo Công Giáo mới đã trôi dạt ra xa nhau, và xem ra một thay đổi lớn đã diễn ra nơi người trẻ tuổi hơn là Ratzinger. Nhiều người cho rằng các cuộc nổi loạn của sinh viên năm 1968 đã gây ra sự thay đổi này; luận chứng này xem ra có nhiều thuyết phục nếu ta để ý tới nồng độ bạo động của chúng. 

Thế nhưng, khó có thể tin được rằng chỉ một vài tháng bạo động như thế đủ gây đe dọa nặng nề cho các xác tín tôn giáo của một người có tầm cỡ như Ratzinger. Hans Küng, người, vào năm 1966, đã mạnh mẽ hỗ trợ và giúp Ratzinger chiếm được ghế giáo sư tại phân khoa thần học nổi tiếng của Tübingen, thì cho rằng chủ nghĩa bảo thủ mỗi ngày một lớn mạnh nơi Ratzinger là hậu quả của lòng ham chức quyền. Cả hai lối giải thích này chỉ cung cấp các giải đáp tiện lợi cho bài toán khó hiểu là Joseph Ratzinger, nhưng chắc chắn không công bằng đối với nhà tư tưởng phức tạp này. Đúng là Ratzinger tiến thân rất nhanh và đảm nhiệm một chức vụ nhiều quyền thế trong tư cách người cố vấn thân cận nhất của Đức Gioan Phaolô II. Nhưng liệu bối cảnh lịch sử cùng với quyền hành hết sức trùng hợp với nhau ấy có thực sự hủ hóa được Ratzinger và biến ngài thành một viên chức giáo quyền cổ hủ chăng? Hay có lẽ Ratzinger đúng khi được Vittorio Messori hỏi liệu việc ngài tham gia tập san Concilium có phải là một tội không, đã trả lời rằng “Tuyệt đối không. Tôi không thay đổi; chính họ mới thay đổi”?

Trong bài này, mục đích của chúng tôi là nhìn lại mối tương quan phức tạp giữa Joseph Ratzinger và Karl Rahner bằng cách đặt câu hỏi: phải chăng Ratzinger đã thay đổi một cách triệt để, trong khi Rahner vẫn luôn trung thực với chính mình. Nhờ xem sét thời gian trước khi, trong khi và sau khi có Vatican II, bài này muốn cố gắng làm sáng tỏ sự diễn biến trong tư tưởng Ratzinger và muốn chứng minh rằng tiểu sử của ngài cho thấy nhiều liên tục hơn người ta chịu thừa nhận. Và trong khi cả hai đều có thay đổi, thì sự thay đổi sau Công Đồng nơi Rahner có tính triệt để hơn. Phần Ratzinger, các biến cố chung quanh làm ngài trở nên cứng rắn hơn, càng ngày càng chứng tỏ: ngài muốn trở về với các quan điểm giáo phụ, những quan điểm mà ngài luôn luôn duy trì trong cố gắng muốn cứu Giáo Hội khỏi nguy cơ đánh mất tinh thần đích thực của mình. 

Trước Công Đồng

Tháng Giêng, năm 1959, khi Đức Gioan XXIII tiết lộ cho một nhóm phụ tá thân cận kế hoạch của ngài về công đồng chung, thì đề xuất của ngài bị chạm trán với một im lặng nặng nề. Các viên chức giáo triều không phải là những người duy nhất phản ứng một cách khá ngỡ ngàng bối rối. Mà cùng với họ là toàn thể Giáo Hội. Sau khi khóa nhất đã kết thúc, Joseph Ratzinger vẫn nhớ lại các do dự còn phảng phất đâu đó trong quyết định dấn thân vào Công Đồng của mình: “Khi nhìn trở lui để cố gắng nhớ lại các biến cố từng xẩy ra, phải thú thực nói rằng khởi đầu của Công Đồng đã bị chi phối bởi một cảm giác khó chịu nào đó, một mối lo là toàn bộ sự việc rút cục sẽ trở thành lời xác nhận đối với các quyết định đầy thiên kiến, và do đó, trong khi làm thất vọng nhiều người, khiến họ mất can đảm, làm tê liệt tính năng động của người tốt, và để các vấn đề mà thời hiện đại đang đặt ra cho Giáo Hội vẫn y nguyên không được giải đáp, nó sẽ gây hại cho Giáo Hội nhiều hơn là làm lợi”. 

Karl Rahner cũng không lạc quan gì hơn. Ngài từng phát biểu nhiều dự cảm tiêu cực trong một bài nói chuyện với các sinh viên tại Innsbruck năm 1959. Tựa đề bài nói chuyện cũng đủ nói lên những dự cảm ấy “Về Công Đồng Đầy Đe Dọa và Sắp Diễn Ra”. Nó quả có giọng hoài nghi, nhất là liên quan đến tính thực tiễn của Công Đồng, nội dung của nó, và bản chất nói là đại kết của nó: “Các bạn hãy tưởng tượng Công Đồng sẽ khó khăn ra sao khi có sự tham dự của hai nghìn giám mục; và khi mời cả các các giám mục hiệu tòa nữa, thì các bạn hẳn mau chóng đụng tới một chiều kích hầu như không thể xoay trở được về phương diện kỹ thuật”. 

Giống nhiều người trước ngài, Rahner nghĩ tới các hình thức khác có thể thay thế cho một công đồng theo nghĩa truyền thống, như hình thức sử dụng các câu hỏi trên giấy giống như cách các Đức Piô IX và Piô XII đã sử dụng trước khi công bố các tín điều về Đức Mẹ. Vì chưa hiểu rõ nội dung của Công Đồng, nên Rahner không hiểu nổi nỗi hân hoan của công chúng đối với tin tức này. Thay vào đó, ngài do dự không dám tham gia vào các đồ đoán, và chỉ hạn chế vào việc nhấn mạnh tới sự kiện mình ít biết nhiều về vấn đề này. 

Sau cùng còn vấn đề đại kết nữa, một vấn đề ngài rất quan tâm. Ngài hoài nghi Công Đồng này không có được tiềm năng hợp nhất như các Công Đồng Lyon năm 1274 hay Công Đồng Florence năm 1438-1445. Thay vào đó, ngài chỉ dám nghĩ Vatican II có tiềm năng tự lượng giá về chính mình, giúp làm sáng tỏ vị trí của Giáo Hội Công Giáo trong tương quan với các Giáo Hội khác. 

Nhìn trở lui, người ta dễ quên sự kiện này: không phải phe bảo thủ tỏ ra ngờ vực, mà cả những người sau này góp phần chủ yếu vào việc lên khuôn cho Công Đồng cũng ngờ vực không kém. Tuy nhiên, việc công bố về Công Đồng đã làm sống dậy một quan tâm chung đối với nền thần học về công đồng từng dẫn tới các khảo luận có tính hệ thống và lịch sử của nhiều thần học gia, trong đó có Rahner và Ratzinger. Trong tiểu luận năm 1962 “Về Nền Thần Học Các Công Đồng”, một tiểu luận ngài dựa nhiều vào bài nói chuyện tại Innsbruck trên đây, Rahner cố gắng làm dịu các hoài mong quá trớn của nhiều người lúc ấy. Đối với Rahner, Công Đồng chủ yếu chỉ là bộ phận cai trị không đại diện cho các đặc sủng của Giáo Hội. 

Theo ngài, Giáo Hội Công Giáo là một định chế được cấu trúc theo phẩm trật, dưới sự lãnh đạo của hàng giám mục và Đức Giáo Hoàng, một phẩm trật ngài cho rằng chính Chúa Giêsu đã thiết lập. Về phương diện này, chủ trương của Rahner hoàn toàn có tính truyền thống và phù hợp với giáo huấn huấn quyền. Nhưng rồi ngài tìm hiểu ý niệm hợp đoàn (collegiality) và các hệ luận của nó đối với quyền bính sau cùng trong Giáo Hội. Ngài mạnh mẽ quả quyết tính hợp đoàn và dựa trên viễn tượng này duyệt lại mối liên hệ giữa hàng giám mục và Đức Giáo Hoàng. Đối với ngài, cả ý niệm coi Đức Giáo Hoàng như thẩm quyền pháp chế tối hậu lẫn việc dị biệt hóa không thoả đáng giữa công đồng và Đức Giáo Hoàng đều không đứng vững; dẫn khởi từ tính hợp đoàn, thẩm quyền sau cùng phải thuộc công đồng cùng với Đức Giáo Hoàng như một cơ chế (body). Hiểu như thế, “quyền giáo huấn không thuộc toàn thể hàng giám mục dưới và cùng với Đức Giáo Hoàng trong lúc có công đồng mà thôi, khi cả hai tạo thành một cơ thể, hay thuộc Đức Giáo Hoàng khi công đồng không họp, mà đúng ra luôn luôn và ở mọi thời phải thuộc toàn thể hàng giám mục dưới và cùng với Đức Giáo Hoàng, ngay cả lúc công đồng không hội họp”. 

Lúc có công đồng, cơ chế cai trị hợp đoàn tối cao này của Giáo Hội, một cơ chế luôn hiện hữu, đã tụ về với nhau. Lý do của việc tụ họp này chỉ đơn giản là nhu cầu bức thiết; vì toàn thể hàng giám mục dưới và cùng với Đức Giáo Hoàng có thề hành động một cách đầy đủ hoàn toàn dù công đồng không họp, nên muốn triệu tập công đồng, cần có một lý do đặc thù. Tuy nhiên, chính lý do này không rõ ràng đối với Rahner, vì nội dung của Vatican II vẫn khá mù mờ. 

Tuy thế, tiểu luận của Rahner đánh dấu một cái hiểu quan trọng về công đồng; coi nó như một tiếp diễn có tính hợp đoàn các hoạt động của hàng giám mục và của Đức Giáo Hoàng trong tư cách cơ chế cai trị Giáo Hội. 

Ratzinger thì trình bày nền thần học của ngài về công đồng để trả lời Hans Küng. Trong cuốn Strukturen der Kirche, Kung coi công đồng là đại biểu của Giáo Hội. Giống Rahner, Ratzinger cổ vũ tính hợp đoàn và tìm hiểu xem nó tác động ra sao tới ý niệm coi công đồng là “đại biểu” của Giáo Hội. Ngài khai triển ý niệm vô ngộ, đưa ra chủ trương khá phù hợp với đường hướng của Vatican I, dù không theo lối giải thích cực bảo thủ. Theo ngài, vô ngộ không thuộc một mình Đức Giáo Hoàng, mà đúng hơn thuộc cơ chế thống nhất của toàn thể Giáo Hội. Do đó, Đức Giáo Hoàng chỉ có thể nói một cách vô ngộ khi ngài nói điều được toàn thể Giáo Hội chấp nhận là vô ngộ. Hiểu như thế, người giáo dân cũng dự phần vào tính vô ngộ trong đức tin của toàn thể Giáo Hội. 

Công đồng cùng với Đức Giáo Hoàng tạo thành cơ chế pháp quyền tối cao của Giáo Hội, được triệu tập bất cứ khi nào cần. Theo Ratzinger đó là trường hợp khi Giáo Hội chia rẽ về một vấn đề đặc thù nào đó. Như thế, trách nhiệm riêng biệt của công đồng là trách nhiệm ngăn ngừa và bảo vệ. Sau này, ngài viết: “Các công đồng bắt nguồn từ mục tiêu bảo vệ Giáo Hội khỏi các tư tưởng sai lạc (Falschgeist) và bắt nguồn từ nhu cầu cần thiết phải so sánh và hợp nhất hóa các truyền thống, trật tự tập thể của Giáo Hội, và nhu cầu giúp đỡ nhau để đạt dược sự hướng dẫn thích đáng”. 

Như thế, Công Đồng là một hội nghị tư vấn và quyết định, trong khi Giáo Hội còn hơn thế nữa. Đặc sủng, chẳng hạn, là khía cạnh chủ yếu của Giáo Hội, nhưng không là thành phần của Công Đồng. Chính sự khác nhau ấy làm Công Đồng thành synedrion (thượng hội đồng) chứ không thành ekklesia (Giáo Hội).

Năm 1961, Rahner và Ratzinger cùng xuất bản chung cuốn Episkopat und Primat , trong đó, họ cố gắng hòa hợp cái hiểu thần học của họ về mối tương quan giữa công đồng và Đức Giáo Hoàng. Tuy nhiên, có nhiều dị biệt tuy nhỏ mà khá quan trọng giữa họ với nhau, họ chỉ nhất trí trong các đặc điểm đệ nhị đẳng của Công Đồng mà thôi. Công trình này, tuy thế, vẫn đã lọt vào mắt hai vị Hồng Y, đều là thành viên của ủy ban chuẩn bị Công Đồng. Cuối cùng hai vị Hồng Y này đã đem cả hai nhà thần học tới Rôma làm chuyên viên cho mình. 

Ratzinger từng gặp Đức Hồng Y Frings cuối thập niên 1950 qua một người bạn cũ, lúc đó là thư ký riêng của Đức HY Frings, Hubert Luthe. Cảm kích trước giảng khóa thần học công đồng do Ratzinger trình bày tại viện hàn lâm Công Giáo tại Bensberg, Đức HY Frings yêu cầu Ratzinger đọc hộ ngài tất cả các sơ đồ và đưa ra các cải tiến. Ở đây, ta thấy nhiều tầm nhìn rất thông suốt của Ratzinger về công đồng sắp tới. Ngài viết: “Dĩ nhiên, tôi cảm thấy các sơ đồ vẫn còn (thiếu) nhiều điều đáng ước ao, nhưng không thấy cơ sở nào để hoàn toàn bác bỏ như lời yêu cầu của nhiều người ở Công Đồng. Chắc chắn việc canh tân về Thánh Kinh và giáo phụ, một đặc điểm của các thập niên trước đây, chỉ in được những dấu ấn khá khiêm tốn lên các sơ đồ này, do đó đã biến chúng thành cứng ngắc và hẹp hòi đôi chút, quá gần với nền thần học khoa bảng, quá là suy nghĩ của học giả và không đủ là suy nghĩ của mục tử. Tuy nhiên, người ta phải nhìn nhận rằng chúng tuyệt đối chắc chắn và được soạn thảo cẩn thận”.

Dù những dòng ký ức trên được viết sau Vatican II 30 năm, người ta vẫn cảm nhận được cách nhận định về các sơ đồ đầu tiên của Ratzinger và ngài đã dự kiến ra sao về đường hướng tương lai của Công Đồng. Hiển nhiên, ngài quan tâm tới việc tích hợp các thành quả do các nghiên cứu trước đây của khoa chú giải Thánh Kinh và các trước tác về giáo phụ đem lại. Tuy nhiên, ngài không lưu tâm nhiều tới các hoài mong muốn hướng Giáo Hội về các vấn đề trần thế. 

Cùng lúc ấy, Đức Hồng Y König của Vienna, người mà Rahner gặp lần đầu trong chiến tranh, yêu cầu Rahner đọc và phê phán dùm ngài các sơ đồ. Không như Ratzinger, Rahner tỏ ra không thân thiện với các sơ đồ này bao nhiêu, dù một số vấn đề chủ yếu được ngài lưu tâm cũng tương tự như các vấn đề từng làm đồng nghiệp trẻ tuổi hơn của mình tại Bonn bận tâm. Trong một lá thư gửi Đức Hồng Y, Rahner viết: “các tác giả [của các sơ đồ này] chắc chắn chưa bao giờ phải chịu các cơn ghiền của người vô thần hay người không phải là Kitô hữu, tức những người muốn tin nhưng lại nghĩ mình không thể nào tin”. 

Và trong một thư khác, ngài viết: “Không, những sơ đồ này không làm mọi chuyện chúng có thể làm được; chúng là các khai triển chi tiết của những người an tâm thư thái lẫn lộn sự tự tin của mình với tính chắc chắn của đức tin... Đây là các khai triển chi tiết của các giáo sư tốt lành và đạo đức... quên mình, nhưng thiếu khả năng nắm lấy cơ may của thời hiện tại”. 

Như thế, rõ ràng, cả Rahner lẫn Ratzinger đều nhìn thấy nhu cầu thích ứng và duyệt lại, nhất là vì bản chất quá cao về tri thức và thiếu âm sắc về mục vụ trong các sơ đồ, nhưng họ khác nhau trong việc đánh giá điều thực sự cần phải làm. Trong khi với Ratzinger, vấn đề nằm ở chỗ thiếu sự lãnh đạo thiêng liêng, thì Rahner lại quan tâm sâu sắc tới những ai thấy khát vọng đức tin chân chính của họ không hoà hợp được với thế giới ngày nay. Trong khi Ratzinger thấy các văn kiện của công đồng chắc chắn và được soạn thảo cẩn thận, thì Rahner tuy cũng thấy chúng có nghĩa, nhưng lại cho rằng chúng không đi đến đâu cả. Ta không nên đánh giá thấp các dị biệt xem ra không đáng kể về tập chú và cả về ngôn từ này; vì chúng phản ảnh các nền thần học nằm ở bên dưới, vốn điều hướng hai nhà thần học này trong lúc họ đọc các bản văn chuẩn bị và sẽ lên khuôn phần lớn việc họ tham dự vào Công Đồng. Ngay trong các công trình đầu tiên của mình, Rahner vốn đã khai triển ra các điểm chính yếu cho phương pháp tiên nghiệm (transcendental method) của mình, một phương pháp nhằm phối hợp việc tìm hiểu lịch sử các kinh nghiệm cụ thể với việc suy tư tiên nghiệm (transcendental reflection) về các điều kiện khả hữu của nó. Nguyên ý niệm cho rằng ta có thể cảm nghiệm được Thiên Chúa một cách trực tiếp hay ý niệm cho rằng cảm nghiệm về mọi vật hữu hạn sẽ đẩy ta hướng về chân trời vô hạn của mầu nhiệm tối hậu là Thiên Chúa, đã cho thấy: đối với Rahner, ta không thể tách biệt hữu thể lịch sử và hiện hữu trong đời ra khỏi hữu thể nhân bản. 

Trái lại, Ratzinger từ sớm đã tiếp nhận một nền thần học nhiều xuất thế (world-denying) hơn; nền thần học này chịu ảnh hưởng nền nhân học tân Platông, không khác bao nhiêu so với nền thần học của bậc thầy vĩ đại từng là tập chú cho việc nghiên cứu tiến sĩ của ngài là Thánh Augustinô.Ngài viết luận án để được nhận ghế giáo sư (Habilitationsschrift) về Thánh Bonaventura, người chưa biết gì tới bước ngoặt nhập thế (world-affirming) trong thế giới quan của những vị như Thánh Albertô Cả hay Thánh Tôma Aquinô. Thành thử không ngạc nhiên gì khi Ratzinger luôn nhấn mạnh tới sự quan trọng của nền thần học giáo phụ và thần khí học (pneumatology) của Giáo Hội Đông Phương.

Thuyết cực duy tri thức (hyper-intellectualism) của tân kinh viện, một lý thuyết hết sức đặc trưng trong Giáo Hội sau Vatican I (nhất là sau Đức Lêô XIII) đối với ngài, một người theo Thánh Augustinô, luôn luôn đáng hoài nghi, vì thánh Augustinô chuyên đi tìm sự hồi hướng tâm linh hơn là thuyết lý khoa bảng. Bằng nhiều cách, Ratzinger coi nền thần học giải thích của duy tri thức như một biện giáo không cần thiết, vì phía sau khoa biện giáo này, Giáo Hội “dấu diếm chứ không tin tưởng sự thật vốn sống trong tự do tự tại mà không cần dấu diếm”. 

Với những dị biệt căn bản giữa hai chủ trương triết học và thần học ấy, người ta rất ngạc nhiên, khi thấy Rahner và Ratzinger hợp tác với nhau một cách hết sức thành công tại Vatican II.

Kể từ thời Trung Cổ, người ta không thể quan niệm được một công đồng mà lại không có sự tham dự của các nhà thần học, những người hành xử như cố vấn cho các giám mục. Vatican II cũng thế. Tuy nhiên, việc các chuyên viên cá nhân khuôn định đường hướng của Công Đồng chính xác ra sao, họ ảnh hưởng thế nào đối với ý kiến các giám mục và nhất là đối với nội dung các văn kiện sau cùng là điều không dễ xác định. Ở đây, sử gia buộc phải dựa hoàn toàn vào các tường thuật của chính các chuyên viên hay của các cá nhân khác có mặt tại Công Đồng. Trong trường hợp Rahner, các phân tích của Karl Heinz Neufeld, Günther Wassilowsky và Herbert Vorgrimmler cung cấp cho ta nhiều cái nhìn thấu suốt về các hoạt động của ngài không những tại Công Đồng mà còn trong giai đoạn chuẩn bị nó cũng như trong lúc Công Đồng không nhóm họp.

Về phần Ratzinger, các đóng góp đặc thù của ngài cho Công Đồng còn đợi những nghiên cứu chi tiết hơn, nhưng một số vẫn có thể được tái dựng nhờ các trước tác của chính ngài cũng như các nguồn đệ nhị đẳng về Công Đồng. Ở đây, chúng ta chủ yếu tập chú vào (a) sự can dự của Rahner và Ratzinger vào các công trình của Công Đồng về mối tương quan giữa Giáo Hội và thế giới, và (b) sự tương tác thực tế giữa họ với nhau tại các nhóm làm việc hay trong lúc Công Đồng không nhóm họp. Bất chấp các khó khăn trước đó với giáo triều và việc Đức HY Ottaviani miễn cưỡng tiếp nhận ngài, Karl Rahner vẫn đã trở thành một thành viên của Ủy Ban Thần Học và can dự một cách tích cực và có ý nghĩa vào việc chuẩn bị các văn kiện Lumen Gentium, Dei Verbum, Gaudium et Spes, và Perfectae Caritatis 

Nhưng ảnh hưởng của ngài vượt quá Ủy Ban Thần Học. Ngài thực hiện nhiều buổi diễn giảng và thường tham dự các cuộc đối thoại với các nhà thần học và giám mục của nhiều ủy ban khác. 

Chắc chắn, việc trên không thể có được, nếu không có mối liên hệ thân hữu giữa các giám mục và các chuyên viên, một mối liên hệ đã có ngay từ những ngày đầu. Chính cha cho hay: “Có lẽ người ta sẽ bảo nếu, không những tôi, mà một số nhà thần học không có được sự hiểu biết thân ái với các giám mục ngay từ buổi đầu của Công Đồng, thì Công Đồng hẳn đã đi theo một đường hướng hoàn toàn khác với đường hướng nó đã chọn”.

Nhưng ngoài liên hệ tốt đẹp giữa các giám mục và các chuyên viên ra, cũng còn yếu tố rất thực tiễn đối với mối liên hệ này. Số giám mục thách thức các sơ đồ do ủy ban chuẩn bị soạn thảo muốn có những bản văn thay thế cũng như các lời phê bình vững chắc về thần học đối với các sơ đồ này. Thành thử nhiều chuyên viên rút cục đã phải soạn thảo các bản văn thay thế để trình cho các nghị phụ. Việc làm của Rahner đối với Lumen Gentium bao gồm cả công việc tại ủy ban thần học lẫn các buổi đàm đạo với các giám mục, các buổi diễn thuyết, các phát biểu viết cho Đức HY König để ngài trình bày tại Phòng Công Đồng (aula).

Khi đã thuyết phục được các giám mục Đức và Áo tin rằng sơ đồ Depositum Fidei có vấn đề, ngài bèn lập tức bắt đầu cùng Ratzinger chuẩn bị cách đáp ứng. Rahner thường không tới phòng họp khoáng đại, vì ngài cho các thảo luận ở đấy, trong căn bản, chỉ mất thì giờ. Thay vào đó, ngài bắt tay vào sơ đồ. Về sự hợp tác với Ratzinger này, Rahner có viết trong sổ tay của mình như sau: “tôi rất ăn ý với Ratzinger. Và ngài có tiếng tăm tốt với (Đức HY) Frings”. 

Xét chung, việc can dự của Rahner chủ yếu thuộc lãnh vực Giáo Hội học. Ngài tham dự tích cực vào việc lên khuôn cho sơ đồ De Ecclesia, cố gắng bao gồm vấn đề chức phó tế vào sơ đồ Giáo Hội, vận động để Thánh Mẫu Học được lồng vào văn kiện về Giáo Hội học của Công Đồng, cổ vũ tính hợp đoàn và ủng hộ nền thần học về các Giáo Hội địa phương. Từ tháng Chín năm 1963 trở đi, sự can dự của Rahner chủ yếu vẫn thuộc lãnh vực Giáo Hội học. Ngài tham dự việc soạn thảo sơ đồ XIII, sau này được biết dưới tên Gaudium et Spes 

Theo Đức HY König, Rahner đặc biệt lưu ý đến việc khai triển Lumen Gentium, nhưng Yves Congar nhớ rằng ảnh hưởng của ngài đối vớiGaudium et Spes cũng không kém phần quan trọng. Sơ đồ này được đề xuất và chịu ảnh hưởng của đội tiền phong trong nền thần học Pháp. Rahner cố gắng làm dịu nền nhân học hơi quá lạc quan này bằng ngữ cảnh nền thần học thánh giá. 

Tuy thế, nền thần học của ngài vẫn là nền thần học nhập thế và tập chú vào quan tâm mục vụ đối với con người nhân bản hiện đại trong thế giới. Giống Rahner, Ratzinger không đơn giản chỉ là một trong khá nhiều chuyên viên chỉ biết thầm lặng làm việc cho các giám mục liên hệ của mình mà thôi. Suốt thời Công Đồng, ngài thực hiện nhiều buổi diễn thuyết về các đề tài có liên quan với Rôma cũng như Đức khi Công Đồng không nhóm họp. Ngài tổ chức các buổi thuyết trình cho các nghị phụ và cho công bố một loạt nhận định nổi iếng về Công Đồng. Như John Allen từng viết: “Dù Ratzinger không lên tiếng tại phòng khoáng đại, ngài vẫn là khuôn mặt công cộng bằng mọi cách khác”. 

Như trên đã thấy, sự can dự của ngài cũng bao gồm việc làm đối với các văn kiện, như văn kiện thay thế cho văn kiện về mạc khải, một văn kiện ngài soạn thảo với Rahner. Ngày 25 tháng Mười năm 1962, Đức HY Frings gặp các Đức HY Alfrink, Suenens, Liénart, Döpfner, Siri, và Montini, và yêu cầu Ratzinger trình bày với các ngài các gợi ý của hội đồng giám mục nói tiếng Đức. 

Nói chung, phản ứng khá tích cực, và lúc đó, hẳn Ratzinger đã gây được ấn tượng sâu sắc nơi các nghị phụ, nhất là Đức HY Montini, người sau này, trong tư cách Đức Phaolô VI, đã cử Ratzinger làm Tổng Giám Mục Munich và cuối cùng nâng ngài lên hàng Hồng Y. Trong khi ấy, Ratzinger cũng lưu tâm không kém tới các vấn đề mục vụ như Rahner. Ngài thực sự quan tâm đến con người, nhưng lưu ý chính của ngài không phải là làm cách nào đem Giáo Hội lại gần thế giới hơn mà đúng hơn là làm cách nào khiến thế giới can dự vào sứ điệp Kitô Giáo. Nên không lạ gì trong các văn kiện của Vatican II, Dei Verbum là văn kiện trực tiếp chịu ảnh hưởng của Ratzinger hơn cả. 

Sau Công Đồng

Điều làm ta khó đo lường được tác dụng của Công Đồng đối với đời sống Giáo Hội không những chỉ là tính mơ hồ của các văn kiện và các cách khác nhau trong việc thực thi nội dung của chúng, mà còn vì khối lượng khổng lồ các văn bản, các buổi diễn thuyết, các cuộc đàm đạo và thư từ không được bao gồm trong các văn kiện cuối cùng. Như Rahner có lần nói về công đồng: “Nó như việc sản xuất chất radium. Người ta phải làm việc với cả tấn quặng mới sản xuất ra được 0.14 gram radium. Tuy nhiên, vẫn rất đáng công”. 

Chịu khó lục lọi qua hàng tấn chất quặng này, tức các câu truyện và khai triển bản thân của các nhà tư tưởng chính của Công Đồng, ta mau chóng thấy rằng cách này hay cách khác, Công Đồng quả đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng đối với tất cả các nhân vật này. Bất kể họ tới Rôma với ý nghĩ nào, hầu như ai trong số họ cũng đều đã biến đổi quan điểm của mình qua suốt 4 năm của Công Đồng, nhờ rất nhiều cuộc thảo luận và trao đổi. Có thể nói: Công Đồng đã đánh dấu một cuộc hồi tâm nơi phần đông, nếu không muốn nói là tất cả, những người tham dự nó, trong đó có Ratzinger và Rahner. Cả hai đều nhiều lần nói tới trải nghiệm của họ tại Công Đồng và về ý nghĩa của nó đối với chính họ và đối với Giáo Hội nói chung. Khi các thành quả của Vatican II dần dần được thực thi và khi thế giới sống qua những thời khắc xáo trộn, các lượng giá của họ không hẳn về chính Công Đồng, mà về tình trạng Giáo Hội ngày nay đã có những khuôn hình khác hẳn. Chỉ 3 năm sau khi Vatican II kết thúc, sự dị biệt này đã trở thành rõ rệt. Thử hỏi việc gì đã xẩy ra? Muốn trả lời, thiển nghĩ, ta nên đặt câu hỏi vào ngữ cảnh lịch sử. 

Cả hai nhà thần học này đều là người Đức, sống trong một bối cảnh xã hội đặc thù, được trang bị với những phương thế lượng giá hoàn cảnh và đáp ứng nó do văn hóa lên khuôn, và do đó, điều chủ yếu là phải làm sáng tỏ hoàn cảnh đặc thù của họ mới hòng giải thích được các kết luận của họ. Tại Đức cũng như tại những nơi khác ở tây bán cầu, các năm sau Vatican II là các năm được đánh dấu bằng nhiều bất ổn xã hội. Nhưng không giống ở Hoa Kỳ, nơi sinh viên chĩa mũi dùi tức giận của họ trước nhất vào việc chống lại cuộc chiến tranh mau chóng leo thang tại Đông Nam Á, các sinh viên Đức đối diện với một vấn đề khác hẳn, thuộc lịch sử gần đó của Đức. Thực vậy, sau Thế Chiến II, rất nhiều người trước đây từng giữ các chức vụ quan trọng trong chế độ cai trị tàn bạo của Hitler nay lại một lần nữa len lỏi vào bộ máy chính quyền, nắm giữ các chức vụ quan trọng không kém, như viện trưởng đại học chẳng hạn. 

Trước hoàn cảnh ấy, phong trào sinh viên được đà và mau chóng mang hình thức bạo động. Một phần cũng vì ngày 2 tháng Sáu, 1967, trong một cuộc biểu tình chống quốc vương Ba Tư đến thăm Bá Linh, Benno Ohnesorg, 26 tuổi, đã bị một cảnh sát viên bắn chết. Từ đó, các cuộc biểu tình gần như xẩy ra hàng ngày; các sinh viên tẩy chay lớp học, chiếm giữ các giảng đường khiến việc giảng dạy hoàn toàn ngưng trệ. Đối với các giáo sư vốn được sinh viên trọng kính, tình thế này hoàn toàn không có tiền lệ và thật là khó xử. Một số tham gia thảo luận, cố gắng trình bày quan điểm chống lại các sinh viên biểu tình, một số khác tỏ ý ủng hộ nội dung biểu tình nhưng không nhất thiết ủng hộ phương thế thực hiện. Cuộc xáo trộn này ảnh hưởng đến cả phân khoa thần học tại đại học Tübingen, nơi Ratzinger giảng dạy lúc ấy. Herman Häring, một cựu sinh viên tại Tübingen, mô tả tình thế lúc ấy như là mau chóng dẫn tới phân hóa. 

Trong một bài báo gần đây, Ronald Modras cho rằng không nên lẫn lộn “cuộc bất ổn của sinh viên” tại Tübingen với cảnh bạo động từng xẩy ra ở Paris và Chicago cùng một năm. Còn các sinh viên dự các lớp của Ratzinger thì không giống chút nào với những người theo Mao từng phá phách các lớp học tại các phân khoa khác ở Tübingen.

Tuy thế, các vụ đập phá, ngăn chặn lớp học hay ngồi lỳ trong đó chắc chắn có gây ấn tượng. Năm 1968, các sinh viên thần học có ra một tuyên cáo đòi thần học phải được tự do; bản tuyên cáo này có chữ ký của 1,322 sinh viên. Một năm sau, các sinh viên thần học Tübingen có công bố một lá thư đòi các giám mục phải được bầu chọn và nhiệm kỳ của các ngài tối đa chỉ nên kéo dài 8 năm. Phân khoa đã đáp ứng khác nhau đối với các đòi hỏi của sinh viên. Hans Küng, chẳng hạn, cũng ngỡ ngàng như Ratzinger trước các đòi hỏi của sinh viên, nhưng đã chống đối thẳng thừng bằng cách tham gia thảo luận với các sinh viên. Tuy nhiên, rất may, tiếng tăm ông không hề hấn gì. Những vị khác, như Ernst Käsemann thuộc phân khoa Thệ Phản, thì xử lý tình thế này cách tinh tế hơn và nhờ thế cũng không bị sinh viên công kích gì. Ratzinger, vốn là người trầm lặng và dè dặt hơn, nên đã rút lui và tránh mọi cuộc đàm đạo. Thay vào đó, ngài đã chú tâm vào việc viết lách. Nhờ thế, trong năm 1968, đã cho xuất bản tác phẩm nổi tiếng nhất của ngài là cuốn Einührung in das Christentum (Dẫn Nhập vào Kitô Giáo).

Dựa vào các bài diễn giảng trong năm 1967, cuốn sách trên giúp ta nhìn thấu nền thần học của Ratzinger cũng như quan điểm của ngài về tình hình lúc ấy; ngay lời nói đầu cũng đã cho thấy cuốn sách này phải được đọc trong ngữ cảnh đương thời. Ratzinger viết: “Vấn đề nội dung và ý nghĩa thực sự của đức tin Kitô Giáo ngày nay bị chìm vào trong màn sương mù không chắc chắn như chưa từng có trước đây trong lịch sử Kitô Giáo”. 

Không như những người ngốc nghếch, mù quáng chấp nhận bất cứ những gì mới lạ chỉ vì chúng mới lạ, những ai từng ưu tư theo dõi sự phát triển trong Giáo Hội suốt thập niên qua được nhắc nhở phải nhớ câu truyện “Hans Gặp May” của Anh Em Nhà Grimm. Anh chàng này đổi cả thỏi vàng có được bằng mồ hôi nước mắt lấy những vật càng ngày càng trở nên vô giá trị, cho tới lúc chẳng còn gì khác ngoài miếng đá mài. Khi mất cả miếng đá này, Hans thấy mình hoàn toàn tự do, chẳng còn vướng mắc chi và rất hạnh phúc. Đối với Ratzinger, sự phấn khích trong thái độ tín hữu tiếp nhận Vatican II nhắc người ta nhớ tới niềm hạnh phúc của Hans; mỗi giải thích mới, đối với ngài, giống như một trao đổi trong đó Kitô Giáo đích thực bị thiệt thòi. Người cựu chuyên viên đã trình bày cái hiểu của mình về Kitô Giáo như thế và đã sẵn sàng duy trì điều những người mê say thay đổi sẵn sàng vứt đi. Hans Küng nhận định: “Joseph Ratzinger sợ. Và giống như viên điều tra vĩ đại của Dostoyevsky, ông không sợ điều gì hơn là tự do”.

Điều cuốn sách trên cho biết nhiều hơn cả là: suốt trong nó, Ratzinger đã trình bày một nền triết lý theo văn hóa Hy Lạp nằm dưới nền thần học của ngài. Trong một bài điểm sách, Walter Kasper nhận diện được nhiều dấu vết của thuyết nhị nguyên Hy Lạp, xuyên suốt tác phẩm như một sợi chỉ hồng. Ratzinger cảnh giác trước thuyết tân duy sử học (new historicism), trong đó, sự kiện là nhất và chỉ những sự kiện nào ta có thể giải thích được nguyên nhân mới được nhận là kiến thức, giống hệt gợi ý của Descartes trong khi bóp méo Aristốt. 

Theo Ratzinger, điều tiếp theo đó nhất định là quay về với thuyết duy khoa học (scientism) và với nó là “quay về với thực tại bao lâu nó là điều có thể làm được”. Ngài tiếp tục nói rằng thần học từng cố gắng trả lời chủ nghĩa duy sử học đầy tính giản lược này bằng cách tái dựng đức tin theo lịch sử, một động thái thoạt đầu khá hứa hẹn nhưng chẳng bao lâu sụp đổ do chính sức nặng của nó và do việc khoa học hạ bệ lịch sử. Và do đó, thay vì sự kiện, thần học cậy nhờ tới điều cần làm (faciendum) và nhập đức tin thành một với hành vi chính trị, như các công trình của những người như Moltmann và Metz đã chứng tỏ. Đối với Ratzinger, cả sự kiện lẫn điều cần làm không hẳn là phi Kitô Giáo; trái lại, chúng là phần thiết yếu đối với mọi Kitô hữu. Nhưng, ở đây, trọn sự sâu sắc trong chủ trương nhị nguyên của ngài ló dạng, vì cuối cùng, chủ trương này cho rằng, dựa vào đức tin, con người chẳng phải là sự kiện mà cũng chẳng phải là điều cần làm. Chủ trương này chỉ có thể dựa vào sự thật để nói lên, nếu không nó sẽ vô nghĩa.

Rốt cục, chính việc hiểu mới quan trọng, chứ không phải việc biết, và việc hiểu không phát sinh từ kiến thức khoa học kỹ thuật, mà lớn lên từ một mình đức tin mà thôi. Từ đó, ngài kết luận: “Đó là lý do tại sao thần học, một khoa nói về Thiên Chúa một cách có hiểu biết, theo cung cách logos (=thuần lý, hữu lý và hiểu biết) là sứ mệnh hàng đầu của Kitô Giáo. Quyền lợi bất hủy tiêu của văn hóa Hy Lạp trong Kitô Giáo đã đặt cơ sở trên sự kiện này. Tôi xác tín rằng trên bình diện sâu sắc nhất, không phải là chuyện tình cờ khi, trong đà hình thành của nó, sứ điệp Kitô Giáo đã đi vào thế giới Hy Lạp trước nhất và tại đây nó hòa hợp với vấn đề hiểu biết và sự thật”. 

Như Hermann Häring đã chỉ rõ, ở đây, Ratzinger biến văn hóa Hy Lạp thành viên đá thử vàng cho một Giáo Hội lúc ấy đang trở nên phổ quát. Nhưng cùng một lúc, chủ trương này cũng làm cho việc hội nhập văn hóa (inculturation) trở nên khó khăn, một việc chắc chắn được Vatican II vổ vũ, ít là một cách mặc nhiên, và càng ngày càng được thảo luận chung trong Giáo Hội. Đối với Ratzinger, sự thật không phải là chức năng của văn hóa. Như Lieven Boeve từng viết: “Ratzinger cố gắng chứng tỏ rằng có thứ chân lý mãi mãi là chân lý bất chấp mọi giao tiếp văn hóa, chỉ vì nó chân thật”.

Đối với một số người, chủ trương có phần tân Platông này là điều lên đặc điểm cho một Ratzinger mới cũng như viễn tượng thần học và Giáo Hội học cứng rắn của ngài. Nhưng dấu vết của việc say mê đối với triết lý Hy Lạp và ảnh hưởng của nó trên Giáo Hội sơ khai đã hiển nhiên ngay trong các trước tác đầu tiên của ngài. Điều làm ngài thất vọng đối với tình hình mới trong Giáo Hội không hẳn là các sinh viên biểu tình cho bằng việc mở cửa hướng ra thế giới, một việc, theo ngài, sẽ làm hại tới các giá trị Kitô Giáo chân thực. Ngay vào năm 1966, hai năm trước khi các cuộc nổi loạn của sinh viên lên tới cao điểm, Ratzinger đã trình bày một số nhận định không mấy lạc quan về thành quả của Vatican II tại Ngày Công Giáo Đức họp ở Bamberg. Ngài than phiền khuynh hướng phát triển hậu Công Đồng về phụng vụ một là bị tê liệt bởi “một số thực hành cổ xưa” hai là bị đẩy quá xa theo tinh thần hiện đại hóa. 

Đối với Karl Rahner, cuối thập niên 1960 đánh dấu một thời kỳ quan trọng không kém với đặc điểm tích cực dấn thân vào việc canh tân Giáo Hội, một việc được ngài theo đuổi trong các buổi đàm đạo với những người ngoài Giáo Hội. 

Qua các cuộc đối thoại liên khoa, ngài tìm tòi các cách thế mới để giải thích các học lý truyền thống sao cho chúng hoà hợp được với các cái nhìn thấu suốt của các khoa khác, và nhờ thế, trở thành có nghĩa đối với những người vô thần và những ai không phải là Kitô hữu. Điều lên đặc điểm cho phương thức của ngài trong khoảng thời gian này là sự cởi mở, được người viết tiểu sử của ngài mô tả như sau: “Sự cởi mở và sinh khí trong một hạn tuổi mà người khác thì đã về hưu rồi, lòng can đảm đối với những phác thảo mới, những tìm tòi xa hơn, đi vào nhiều khoa và nhiều lãnh vực mới mẻ vốn không quen biết… tất cả những công việc này khiến ngài được ca ngợi và biết ơn, vì nó mang lại cho người ta sự can đảm ở một thời điểm trong đó các phương tiện hướng dẫn cổ truyền đang trên đà thoái hóa”. 

Hai ấn phẩm vào thời gian này làm điển hình cho sự cởi mở đối với thế giới. Trong một bài báo đồng tác giả với J.B. Metz vào năm 1968, Rahner nhận diện 3 vấn đề chính đặt ra cho Giáo Hội sau Vatican II. Thứ nhất là vấn đề Thiên Chúa đối diện với chủ nghĩa vô thần trong lúc có hiện tượng tục hóa gia tăng. Thứ hai, Rahner thấy các phát triển trong Kitô học là nguồn gây ra nhiều nan đề, trong đó sự cân bằng đúng đắn giữa Kitô học “từ bên dưới” và Kitô học “từ bên trên” cần phải được thương thảo. Sau cùng, là vấn đề cứu rỗi cần được dẫn giải qua câu hỏi: “đối với tôi, trong cuộc hiện sinh độc đáo và cụ thể, có chăng một Thiên Chúa nhân hậu?” Tuy nhiên, đối với Metz, việc này chỉ tạo ra một thứ hộ giáo hướng ngoại (Apologia ad extra); bối rối trước hiện tượng xã hội hiện đại phần lớn tin theo chủ nghĩa nhân bản hậu vô thần, là chủ nghĩa ít khi đặt câu hỏi về Thiên Chúa, ông nhấn mạnh tới sự quan trọng của nền hộ giáo hướng nội (apologia ad intra). Rahner đồng ý, nhất là vì nền hộ giáo hướng nội này giúp ngăn ngừa các tân lạc giáo khỏi xuất hiện trong Giáo Hội, một việc ngài cho là khó tránh trong diễn trình canh tân. Hơn nữa, đây cũng là phương thế mang lại tính đa nguyên cho thần học và đời sống Giáo Hội, một điều rất khẩn thiết. Dù cho rằng tính đa nguyên là điều quan trọng, và do đó sự thật cần được thương thảo, Rahner vẫn chủ trương rằng một số sai lạc cần được tuyên bố như thế. Thí dụ, trong trường hợp một nền Kitô học nào đó quá nhấn mạnh tới nhân tính của Chúa Giêsu mà sao lãng thần tính của Người, thì Giáo Hội có trách nhiệm phải can thiệp. Ý muốn thương thảo một cái hiểu về Thiên Chúa và Giáo Hội nhưng không rơi vào thuyết duy tương đối quả là rất khác với cuộc tìm kiếm chân lý tuyệt đối và vô tận của Ratzinger.

Trong một tiểu luận khác, Rahner gọi Vatican II là công đồng đầu tiên của Giáo Hội Thế Giới và tìm hiểu các hệ luận của biến cố này. Hiển nhiên hạn từ Giáo Hội Thế Giới này chịu ảnh hưởng nặng nề bởi ý niệm “hội nhập văn hóa” mà theo Rahner đã trở nên quan trọng hơn bao giờ hết sau Vatican II. Không điều gì phản ảnh khai triển này cho bằng phụng vụ. Đối với Rahner, phụng vụ không hẳn chỉ được phiên dịch từ tiếng La Tinh qua tiếng phổ thông mà đúng hơn đã trở thành một phát biểu địa phương về việc thờ phượng do các nền thần học địa phương lên khuôn. 

Rahner cũng cho rằng dù tính đa nguyên Kitô Giáo, vốn hàm nghĩa trong các văn kiện của Vatican II, được xem như một cố gắng tha thiết muốn thỏa hiệp với thế giới thế tục hiện đại, nhưng chiều hướng hạn chế lạm quyền vốn đã nằm sẵn ngay trong bản chất của Giáo Hội rồi. Rất có thể một số giám mục hay giáo dân bị cám dỗ muốn áp đặt lên người khác, cả bên trong lẫn bên ngoài Giáo Hội, các quan điểm của họ về chân lý bất biến. Nhưng sau Vatican II, các khuynh hướng “phátxít giáo sĩ” này, nhằm hạn chế tự do của tín hữu nhân danh thứ chân lý do một mình chính thống chủ trương không còn khả hữu nữa. Với Công Đồng, Giáo Hội đã tự ý và bất phản hồi từ bỏ quyền lực tuyệt đối để ủng hộ tính đa nguyên không thể tránh né vì đây chính là bản chất đích thực của Giáo Hội. Rahner thừa nhận rằng Bộ Giáo Lý Đức Tin thường hay đáp ứng thay đổi bằng một nền thần học chống chế (defensive theology) nhằm “cảnh cáo và ngăn cấm”. “Nhưng” theo ngài “Bộ không nên hành xử mãi mãi như hiện nay, và nhờ thế, toàn thể Giáo Hội khỏi bị kéo lui trở lại phía sau các hạn chế từng bị vượt qua tại Vatican II”. 

Thần học sẽ biến hóa và từ từ biến đổi từ việc xuất cảng các ý niệm của Âu Châu qua một nền thần học thế giới thực sự, như thần học giải phóng chẳng hạn. Rahner không coi các nền thần học phi Âu châu của địa phương này như một nguy cơ đối với trách vụ thần học của Cựu Thế Giới; trái lại, tình thế hiện thời đòi ta phải hướng về những người đang từ bỏ đức tin ở Phương Tây, đang ra xa lạ với Kitô giáo. Điều cần chấp nhận là các quan tâm của Giáo Hội không còn như nhau khắp trên thế giới nữa. Sau cùng, Rahner hướng về đại kết và nhấn mạnh rằng Giáo Hội đã tiến một bước thật xa ra khỏi quan niệm “massa damnata” (trầm luân hàng loạt) của Thánh Augustinô. Thay vào đó, ơn cứu rỗi có tính phổ quát và ơn thánh Chúa được đề xuất cho mọi con người nhân bản tự do, cho dù họ quyết định không chấp nhận nó. Với Rahner, ơn cứu rỗi đã thắng thế. 

Kết luận

Mục đích bài này muốn tìm hiểu mối liên hệ giữa Karl Rahner và Joseph Ratzinger cũng như sự thay lòng đổi dạ mà vị sau bị coi là đã kinh qua sau thời Vatican II. Nó cố gắng chứng minh rằng dù Đức Bênêđíctô chắc chắn chịu ảnh hưởng của Công Đồng và các thay đổi do nó tạo nên, nhưng các quan điểm về sau của ngài, trong yếu tính, không khác bao nhiêu so với những quan điểm ngài có trước Công Đồng. Rhaner và Đức Bênêđíctô chắc chắn có chung nhiều quan tâm đối với ý nghĩa của Công Đồng, vai trò của hàng giám mục, và mối lo lắng trước nền thần học quá thiên tri thức của chủ nghĩa tân kinh viện. Nhưng cuối cùng, họ khác nhau trong các quan điểm về mối liên hệ của Giáo Hội với thế giới ngày nay. Sau Công Đồng, các dị biệt này đã xác định ra hướng đi đối nghịch nhau trong các khai triển sau này của hai người. Trong khi Rhaner nhấn mạnh tới nhu cầu Giáo Hội phải thay đổi để hướng tới việc cởi mở với thế giới và những ai “muốn tin nhưng nghĩ mình không thể tin”, thì Đức Bênêđíctô đòi hỏi phải đem Giáo Hội trở về với ý nghĩa chân thực của Kitô Giáo. Đối với Đức Bênêđíctô, cách nhiều người giải thích Công Đồng thật khác xa với ý hướng chân thực của Công Đồng, là phục hưng Giáo Hội đích thực. Việc hiện nay, người ta giải thích sự hợp tác của hai người tại Công Đồng như là một đồng điệu hoà hợp toàn diện chỉ là hậu quả phát sinh từ quan điểm thơ mộng về Công Đồng. Người ta dễ rơi vào chỗ coi Chúa Thánh Thần đã biến Công Đồng thành một mặt trận thống nhất ngay từ đầu, động viên được đa số tham dự viên dấn thân vào việc cùng nhau thay đổi Giáo Hội từ căn cội. Tuy nhiên, cả Rahner lẫn Ratzinger đều cảm thấy không thoải mái với cái nhìn này, bởi họ thấy Công Đồng chỉ đóng vai phụ trợ chứ không hẳn là nơi mà mọi đặc sủng của Giáo Hội đều hoạt động. Ngày nay, khi ta cố gắng tìm hiểu sức sinh động tại Công Đồng, ta cần tới một trình độ nào đó trong ý thức lịch sử và cảm giới và nên nhớ rằng ta làm thế là dựa vào lời của chính các nghị phụ. Các vị này, trong suốt thời gian Công Đồng, cho thấy các ngài cảm nghiệm được điều có thể giải thích là Thần Khí nội tại (immanence of the spirit). Rahner và Ratzinger là hai nhà thần học Đức Tại Vatican II. Chính hậu cảnh văn hóa này đã tiền định để họ có những đáp ứng đặc thù đối với Công Đồng và các vấn đề của nó. Hình như Rahner rất ý thức được chủ trương giải thích đặc thù này, trong khi Đức Bênêđíctô, cho tới nay, vẫn nhấn mạnh tới tính thượng đẳng của nền thần học La Tinh, phần lớn chịu ảnh hưởng của Thánh Augustinô. 

Về phương diện này, Đức Bênêđíctô rất đúng; không phải ngài là người thay đổi. Điều thúc đẩy nền thần học của ngài không phải là lòng can đảm và tín thác rất đặc trưng nơi Rhaner, mà đúng ra là mối lo ngại, lo ngại rằng Giáo Hội có thể lâm vào một hướng đi sai lầm, quá thiên về trần thế. Ratzinger, vì thế, đã đưa ra các biện pháp nghiêm ngặt để duy trì nguyên trạng và trở về với một Giáo Hội tâm linh hơn. Các biến cố năm 1968 có thể đóng một vai trò xúc tác nào đó, nhưng chắc chắn không phải nguồn gốc cho chủ trương hậu công đồng của ngài. Rahner, ngược lại, coi thay đổi như điều cốt yếu của bất cứ truyền thống liên tục nào. Thành thử, các quan điểm của ngài về Giáo Hội học vẫn kinh qua việc tái lên khuôn không ngừng. Người ta chỉ cần nhớ trước Công Đồng, dù vẫn quả quyết tính hợp đoàn, nhưng tính dân chủ trong Giáo Hội là điều Rhaner chưa bao giờ nghĩ tới. Tuy nhiên, sau này, ngài rất thích ý niệm dân chủ, cho dù chỉ là một ý niệm, và rất sẵn sàng đi quá những gì ngài vốn suy nghĩ hồi năm 1962. 

Nếu một trong hai người đã kinh qua một hồi hướng sâu xa và thay đổi đáng kể, thì người đó hẳn là Rahner. Và con đường Đamát của ngài chính là Công Đồng Vatican II. Dù sao, thiển nghĩ sẽ không công bằng nếu ta giản lược Ratzinger, một nhà thần học sâu sắc và thông minh, chỉ còn là một chính khách ham quyền. Các quan tâm của ngài rất chân thực và phát xuất tận đáy lòng. Nhưng việc họ đối nghịch nhau về những gì phát xuất từ Vatican II thực ra vẫn chưa phải là một tận điểm, như chính Rahner nhấn mạnh, mà chỉ là một quá độ hướng tới một điều gì mới mẻ. Công Đồng có lẽ cũng không dự ứng được đâu là phản ứng đối với các quyết định của mình và chính nó cũng làm cho việc nhận định đúng sai của hậu thế khó khăn hơn. Nhưng xét cho cùng, nó đã giúp Giáo Hội một lần nữa bước mạnh vào thế giới và tích cực dấn thân cho Nước Trời. 

Viết theo Oliver Putz, “I Did Not Change; They Did!” Joseph Ratzinger, Karl Rahner and the Second Vatican Council, http://www.academia.edu/470398/
Vũ Van An11/28/2013

Tổng Lược Tông Huấn “Niềm Vui của Tin Mừng”


Vatican, ngày 26 tháng 11 năm 2013 (VIS) - “Niềm vui của Tin Mừng tràn ngập tâm hồn và toàn thể đời sống của những người gặp gỡ Chúa Giêsu”; đó là lời mở đầu của Tông Huấn “Evangelii Gaudium” mà trong đó Đức Thánh Cha Phanxicô trình bày chủ đề về công bố Tin Mừng trong thế giới hiện đại, được rút ra từ, trong số các nguồn khác, sự đóng góp của việc làm của Thượng Hội Đồng Giám Mục được tổ chức tại Vatican từ ngày 7 đến ngày 28 tháng 10 năm 2012 về chủ đề “Tân Phúc Âm hóa để truyền thụ đức tin”. Văn bản mà Đức Thánh Cha trao cho một nhóm ba mươi sáu tín hữu sau Thánh Lễ bế mạc Năm Đức Tin hôm Chúa Nhật vừa qua là tài liệu chính thức đầu tiên của triều đại giáo hoàng của ngài, từ khi thông điệp “Lumen Fidei” được viết với sự hợp tác với đấng tiền nhiệm, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI. Đức Thánh Cha nói tiếp “Tôi muốn khuyến khích các tín hữu Kitô giáo, để mời họ vào một giai đoạn mới của việc truyền giáo được đánh dấu bằng niềm vui trong khi vạch ra những con đường mới cho cuộc hành trình của Hội Thánh trong những năm tới”. Đó là một lời mời gọi chân thành gửi đến tất cả những ai đã được rửa tội để đem tình yêu của Đức Kitô đến cho những người khác, “hãy thường trực ở trong tình trạng truyền giáo”, chinh phục “nguy cơ lớn trong thế giới ngày nay” là sự “tàn phá và đau khổ” gây ra bởi cá nhân chủ nghĩa.

Đức Thánh Cha mời gọi độc giả “phục hồi sự tươi mát ban đầu của Tin Mừng”, tìm “những con đường mới” và “những đường lối mới của óc sáng tạo”, mà không giam hãm Chúa Giêsu trong “những loại mô hình nhàm chán” của chúng ta. Có một nhu cầu cho một “chuyển hướng trong mục vụ và truyền giáo, mà không thể để sự thể như hiện nay”, và một “sự canh tân” những cơ cấu của Hội Thánh để chúng có thể “quy hướng về truyền giáo hơn”. Đức Thánh Cha cũng kể đến “một sự chuyển hướng của chức vụ giáo hoàng”, để làm cho tác vụ này “trung thành hơn với ý nghĩa mà Đức Chúa Giêsu Kitô muốn ban cho nó và với các nhu cầu hiện đại của việc Phúc Âm hóa”. Ngài nói ngài hy vọng rằng các Hội Đồng Giám Mục có thể đóng góp vào việc “thực hiện cụ thể tinh thần Giám Mục Đoàn” là điều “chưa được thực hiện cách đầy đủ”. Một sự “phân quyền lành mạnh” là điều cần thiết. Trong việc cánh tân này, Hội Thánh không nên sợ phải xét lại “một số tục lệ không liên hệ trực tiếp với trọng tâm của Tin Mừng, ngay cả một số trong những tục lệ ấy có nguồn gốc lịch sử sâu xa”.

Một dấu hiệu của sự cởi mở của Thiên Chúa là “cánh cửa nhà thờ của chúng ta lúc nào cũng phải rộng mở” để những người tìm kiếm Thiên Chúa “sẽ không tìm thấy một cánh cửa đóng kín”; “cũng không nên đóng các cánh cửa Bí Tích đơn thuần vì bất cứ lý do nào”. Bí Tích Thánh Thể “không phải là một giải thưởng cho những người hoàn hảo nhưng một liều thuốc mạnh và lương thực cho người yếu đuối”. Những xác tín này có những hậu quả mục vụ mà chúng ta được mời gọi để xem xét với sự thận trọng và táo bạo”. Ngài lặp đi lặp lại rằng ngài thích “một Hội Thánh bị bầm tím, bị tổn thương và nhơ bẩn vì ra ngoài các đường phố, hơn là một Hội Thánh... chỉ quan tâm đến việc nằm ở trung tâm và cuối cùng bị vướng vào một mạng lưới của những cố chấp và thủ tục. Nếu có một điều gì làm cho chúng ta lo âu một cách chính đáng... đó là một thực tại rằng nhiều người trong anh chị em của chúng ta đang sống mà không có... tình bằng hữu của Đức Chúa Giêsu Kitô”.

Đức Tháhn Cha vạch ra rằng “những cám dỗ ảnh hưởng đến những người làm mục vụ” là “chủ nghĩa cá nhân, một cuộc khủng hoảng về căn tính và làm cho lòng nhiệt thành bị nguội đi”. Mối đe dọa lớn nhất là “chủ nghĩa thực dụng màu xám của cuộc sống hàng ngày của Hội Thánh, trong đó tất cả có vẻ tiến hành bình thường, mà trên thực tế đức tin đang bị mệt mỏi”. Ngài cảnh báo chống lại “tinh thần chủ bại”, thôi thúc các Kitô hữu trở thành những dấu chỉ của niềm hy vọng, mang lại một “cuộc cách mạng của dịu hiền”. Cần phải tìm cách loại bỏ “hạnh phúc tâm linh... bị tách ra khỏi trách nhiệm đối với anh chị em của mình” và đánh bại “tinh thần thế tục” bao gồm “việc tìm kiếm vinh quang và hạnh phúc của con người mà không phải vinh quang của Chúa”. Đức Thánh Cha nói về nhiều người “cảm thấy trổi vượt hơn những người khác” vì “ họ còn khăng khăng trung thành với một kiểu Công Giáo riêng biệt trong quá khứ”, theo đó “thay vì rao giảng Tin Mừng, người ta phân tích và xếp loại những người khác” và những người có “một bận tâm phô trương về phụng vụ, về học thuyết và uy tín của Hội Thánh, mà không một chút quan tâm đến việc Tin Mừng có tác động thực sự” đến nhu cầu của dân chúng hay không. Đây là “một sự hủ hóa vĩ đại ngụy trang như một điều tốt lành.... Xin Thiên Chúa cứu chúng ta khỏi một Hội Thánh thế tục với tinh thần bề ngoài và những cạm bẫy mục vụ!”

Ngài kêu gọi các cộng đồng Hội Thánh đừng rơi vào tình trạng ghen ghét và ganh tỵ: “Có bao nhiêu cuộc chiến tranh diễn ra giữa dân của Thiên Chúa và trong những cộng đồng khác nhau của chúng ta!”. “Chúng ta sẽ rao giảng Tin Mừng cho ai nếu đây là cách chúng ta hành động?” Ngài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải cổ võ cho sự phát triển trách nhiệm của giáo dân, là những người thường không được tham gia “vào việc đưa ra những quyết định” vì “một chế độ giáo sĩ trị quá đáng”. Ngài nói thêm rằng có một nhu cầu cho “những cơ hội còn rộng lớn hơn cho sự hiện diện sâu sắc hơn của phụ nữ trong Hội Thánh”, đặc biệt “trong những khung cảnh khác nhau mà ở đó những quyết định quan trọng được đưa ra”. “Những đòi hỏi rằng quyền lợi chính đáng của phụ nữ phải được tôn trọng... không được thể nhẹ nhàng tránh né”. Những người trẻ phải “đóng vai trò lãnh đạo quan trọng hơn”. Đối với tình trạng khan hiếm ơn gọi ở nhiều nơi, ngài nhấn mạnh rằng “các chủng viện không thể chấp nhận các ứng viên dựa trên bất kỳ động lực nào”.

Đối với chủ đề hội nhập văn hóa, ngài nhận xét rằng “Kitô giáo không chỉ đơn thuần là một cách diễn tả văn hóa” và rằng khuôn mặt của Hội Thánh là khuôn mặt “đa dạng”. “Chúng ta không thể đòi hỏi dân chúng của tất cả các châu lục, trong việc diễn tả đức tin Kitô giáo của họ, phải bắt chước cách diễn tả mà các nước châu Âu khai triển ở một thời điểm nhất định trong lịch sử của họ”. Đức Thánh Cha nhắc lại rằng “việc đạo đức phổ thông cơ bản... là một sức mạnh tích cực của việc truyền giáo” và khuyến khích việc nghiên cứu của các nhà thần học, nhưng nhắc nhở họ rằng “Hội Thánh và thần học hiện hữu để rao giảng Tin Mừng” và thôi thúc họ đừng “mãn nguyện với một nền thần học bàn giấy”.

Ngài tập trung “hơi tỉ mỉ vào bài giảng”, vì “có nhiều quan tâm về tác vụ quan trọng này mà chúng ta không thể đơn thuần bỏ qua”. Bài giảng “cần phải ngắn gọn và không giống hình thức của một bài diễn văn hoặc một bài thuyết trình”, phải là một “sự truyền thông giữa hai tâm hồn” và tránh giảng “thuần túy về luân lý hay giáo điều”. Ngài nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc chuẩn bị: “một nhà thuyết giảng không chuẩn bị thì không phải là người 'có đời sống tâm linh’, người ấy bất lương và vô trách nhiệm”. Bài giảng phải luôn luôn tích cực để luôn “đem lại hy vọng” và “không để chúng ta bị mắc kẹt trong sự tiêu cực”. Phương pháp loan báo Tin Mừng cần phải có đặc điểm tích cực: “có thể đến gần được, sẵn sàng đối thoại, kiên nhẫn, ấm áp và chào đón mà không xét đoán”.

Trong tương quan với những thách đố của thế giới hiện đại, Đức Thánh Cha lên án hệ thống kinh tế hiện nay là “bất công tận gốc”. “Một nền kinh tế như thế giết chết” vì luật “ai thích hợp nhất thì sống sót” đang chiếm ưu thế. Văn hóa hiện tại của việc “có thể bị bỏ đi” đã tạo ra “một điều gì mới” là “những người bị loại ra không phải là 'những người bị khai thác' nhưng là những người bị ruồng bỏ, là đồ thừa”. “Như thế vừa phát sinh một chế độ chuyên chế, vô hình và thường tiềm ẩn”, một “sự tự động của thị trường”, trong đó “việc đầu cơ tài chính” và “tham nhũng tràn lan” và “việc trốn thuế vì ích kỷ cai trị”. Ngài cũng lên án “cuộc tấn công vào quyền tự do tôn giáo” và “cuộc bách hại mới chống lại các Kitô hữu.... Ở nhiều nơi, là vấn đề lan tràn của sự thờ ơ và thuyết tương đối”. Đức Thánh Cha tiếp tục rằng gia đình “đang trải qua một cuộc khủng hoảng văn hóa trầm trọng”. Khi nhắc đến những đóng góp không thể thiếu được của hôn nhân đối với xã hội, ngài nhấn mạnh rằng “ cá nhân chủ nghĩa của thời đại hậu hiện đại và toàn cầu hóa của chúng ta cổ võ một lối sống... bóp méo mối liên hệ gia đình”.

Ngài lại nhấn mạnh đến “mối dây liên hệ sâu đặm giữa việc truyền giáo và thăng tiến con người” và quyền của các mục tử “để đưa ra những ý kiến về tất cả những gì ảnh hưởng đến cuộc sống con người”. “Không ai có thể đòi buộc tôn giáo phải rút lui vào nơi thiêng liêng bên trong của đời sống cá nhân, mà không có quyền đóng góp ý kiến về những biến cố có ảnh hưởng đến xã hội”. Ngài trích lời ĐTC Gioan Phaolô II, khi nói rằng Hội Thánh “không thể và không được tiếp tục đứng ngoài lề cuộc đấu tranh cho công lý”. “Đối với Hội Thánh, việc chăm lo cho người nghèo chủ yếu là một loại thần học” chứ không phải là một loại xã hội học. “Đó là lý do tại sao tôi muốn có một Hội Thánh nghèo và cho người nghèo. Họ có nhiều điều để dạy chúng ta”. “Bao lâu mà những vấn đề về người nghèo không được giải quyết cách triệt để... thì sẽ không tìm thấy giải pháp nào cho những vấn đề của thế giới này”. Ngài khẳng định rằng “Chính trị, mặc dù thường bị miệt thị, vẫn là một ơn gọi cao cả và một trong những hình thức cao nhất của việc bác ái”. Tôi cầu xin Chúa ban cho chúng ta thêm các chính trị gia thực sự biết lo lắng cho... đời sống của những người nghèo!” Ngài thêm một lời khuyên: “Bất kỳ cộng đồng Hội Thánh nào”, nếu tin rằng nó có thể quên người nghèo, thì sẽ có nguy cơ “bị xụp đổ”.

Đức Thánh Cha kêu gọi người ta chăm sóc cho các thành viên yếu đuối nhất của xã hội: “những người vô gia cư, nghiện ngập, tị nạn, thổ dân, những người già cả đang ngày càng bị cô lập và bị bỏ rơi” và những người di cư, mà đối với họ Đức Thánh Cha khuyên rằng chúng ta phải có “một tinh thần cởi mở đại lượng”. Ngài nói về những nạn nhân của nạn buôn người và các hình thức mới của chế độ nô lệ: “Mạng lưới tội ác khét tiếng hiện nay cũng được thành lập ở các thành phố của chúng ta, và nhiều người có những bàn tay bị dính máu là kết quả của sự đồng lõa qua việc không quan tâm và im lặng của họ”. “Nghèo gấp đôi là những phụ nữ đang chịu đựng hoàn cảnh bị loại trừ, ngược đãi và bạo lực”. “Trong số những người yếu thế mà Hội Thánh muốn chăm sóc bằng tình yêu và quan tâm đặc biệt là những trẻ em chưa sinh ra, những người không có chút khả năng tự vệ và vô tội nhất giữa chúng ta. Ngày nay có những nỗ lực được thực hiện để khước từ nhân phẩm của các em”. “Đừng mong Hội Thánh thay đổi lập trường của mình về vấn đề này.... Hội Thánh không “cấp tiến” để cố gắng giải quyết những vấn đề bằng cách loại bỏ một mạng sống của con người”. Đức Thánh Cha đưa ra một lời kêu gọi tôn trọng mọi tạo vật: chúng ta “được mời gọi để chăm sóc và bảo vệ thế giới mong manh mà chúng ta đang sống”.

Đối với chủ đề của hòa bình, Đức Thánh Cha khẳng định rằng “phải nói lên một tiếng nói ngôn sứ” chống lại các nỗ lực hòa giải giả tạo để “im lặng hoặc xoa dịu” những người nghèo, trong khi những người khác “từ chối từ bỏ đặc quyền của họ”. Để xây dựng một xã hội “trong hòa bình, công lý và tình huynh đệ”, ngài đưa ra bốn nguyên tắc: “Thời gian lớn hơn không gian” có nghĩa là làm việc “chậm nhưng chắc chắn, không bị ám ảnh với kết quả ngay lập tức”. “Hiệp nhất phải trên xung đột” có nghĩa là “một sự hiệp nhất ban sự sống và đa dạng”. “Thực tại quan trọng hơn những ý tưởng nghĩa là tránh né giảm chính trị hay đức tin xuống thành thuật hùng biện”. “Toàn thể lớn hơn từng phần” nghĩa là đem “sự toàn cầu hóa và địa phương hóa” lại với nhau.

Đức Thánh Cha tiếp tục, “Việc Phúc âm hóa cũng liên quan đến con đường đối thoại”, là điều mở Hội Thánh ra để hợp tác với tất cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, tôn giáo và văn hóa. Đại kết là “một con đường không thể thiếu để rao giảng Tin Mừng”. Phong phú hóa lẫn nhau là điều quan trọng: “chúng ta có thể học hỏi rất nhiều từ nhau!”, chẳng hạn “trong cuộc đối thoại với anh chị em Chính Thống của chúng ta, chúng ta, người Công Giáo có cơ hội để tìm hiểu thêm về ý nghĩa của Giám Mục Đoàn và kinh nghiệm của họ về Thượng Hội Đồng Giám Mục”; “cuộc đối thoại và tình bằng hữu với con cái Israel là một phần của cuộc sống của các môn đệ của Chúa Giêsu”; “đối thoại liên tôn”, là điều phải được thực hiện “một cách rõ ràng và vui vẻ trong bản sắc riêng của mình”, là “điều kiện cần thiết cho hòa bình trên thế giới” và không làm lu mờ việc rao giảng Tin Mừng; trong thời đại chúng ta, “mối quan hệ của chúng ta với những người theo Hồi Giáo có một tầm quan trọng vĩ đại”. Đức Giáo Hoàng “khiêm tốn” xin các quốc gia theo truyền thống Hồi Giáo đảm bảo sự tự do tôn giáo cho các Kitô hữu, cũng “trong ánh sáng tự do mà những người Hồi Giáo vui hưởng ở các quốc gia phương Tây!”. “Đối diện với những cảnh rối loạn về bạo lực do chủ nghĩa cơ bản gây ra”, ngài thúc giục chúng ta “tránh hận thù một cách tổng quát, vì Hồi Giáo chân chính và bài đọc của kinh Koran chống lại mọi hình thức của bạo lực”. Và chống lại nỗ lực tôn giáo tư nhân trong một số hoàn cảnh, ngài khẳng định rằng “Việc tôn trọng vì sự bất khả tri hay vì một thiểu số những kẻ không tin, không được độc đoán áp đặt một cách nào đó để im lặng những xác tín của đa số những người tin, hoặc bỏ qua sự phong phú của truyền thống tôn giáo”. Rồi ngài lặp đi lặp lại tầm quan trọng của việc đối thoại và liên minh giữa các tín hữu và người không tin.

Chương cuối cùng được dành cho “những người rao giảng Tin Mừng đầy thần khí”, họ là những người “mở lòng ra cho tác động của Chúa Thánh Thần một cách không sợ hãi” và những người có “can đảm để công bố tính mới mẻ của Tin Mừng với sự táo bạo (parrhesía) ở mọi nơi và mọi lúc, ngay cả khi bị chống đối”. Đây là những “nhà truyền giáo cầu nguyện và làm việc”, trong sự hiểu biết rằng “truyền giáo cùng một lúc là một nhiệt tình đối với Chúa Giêsu và nhiệt tình đối với dân của Người” : “ Chúa Giêsu muốn chúng ta chạm đến sự đau khổ của con người, chạm vào da thịt đau khổ của tha nhân”. Ngài giải thích rằng “Trong việc giao dịch của chúng ta với thế giới, chúng ta được dạy là hãy đưa ra lý do của niềm hy vọng của mình, nhưng không như một kẻ thù phê phán và lên án”. “Chỉ có những người cảm thấy hạnh phúc khi tìm kiếm những điều tốt lành của người khác, khi mong muốn hạnh phúc cho họ, mới có thể là một nhà truyền giáo”, “nếu tôi có thể giúp đỡ ít nhất một người có một cuộc sống tốt hơn, điều ấy đã biện minh cho việc hy sinh cuộc đời của tôi”. Đức Thánh Cha kêu gọi chúng ta đừng nản lòng trước những thất bại hay không mấy kết quả, vì “việc sinh hoa kết quả thường vô hình, khó nắm bắt và đo lường”; chúng ta phải biết “chỉ quyết tâm dấn thân của mình là điều cần thiết”. Tông Huấn kết thúc bằng một lời cầu nguyện với Đức Mẹ Maria, “Mẹ của Phúc Âm hóa”. “Có một kiểu Maria cho việc truyền giáo của Hội Thánh. Mỗi khi chúng ta nhìn lên Đức Mẹ Maria, chúng ta một lần nữa lại tin vào bản chất cách mạng của tình yêu và sự dịu hiền”.



Phaolô Phạm Xuân Khôi11/28/2013