Buổi nói chuyện của Đức Thánh Cha Phanxicô với các linh mục giáo phận Caserta nam Italia

Chiều Chúa Nhật 27-7-2014 Đức Thánh Cha Phanxicô đã viếng thăm giáo phận Caserta nam Italia, nhân lễ thánh Anna bổn mạng giáo phận. Trước khi chủ sự thánh lễ cho 200.000 người tại quảng trường trước lâu đài hoàng gia, Đức Thánh Cha đã gặp gỡ các linh mục trong nhà nguyện Palatina của lâu đài.

Ngỏ lời chào mừng Đức Thánh Cha Đức Cha D'Alise Giám Mục Caserta nói: ”Thưa Đức Thánh Cha, con đã không dọn bài viết nào hết, bởi vì con hiểu ngay rằng Đức Thánh Cha muốn có tương quan thân tình và sâu đậm với các linh mục. Vì thế con xin chào mừng Đức Thánh Cha. Đây là Giáo Hội của chúng con, các linh mục, rồi sau đó chúng ta sẽ thấy phần còn lại của Giáo Hội, trong khi cử hành bí tích Thánh Thể. Đối với con giây phút này thật quan trọng, bởi vì con có mặt ở đây mới từ hai tháng nay thôi, và con bắt đầu sứ vụ giám mục với sự hiện diện và phép lành của Đức thánh Cha, và đối với con đó là một ơn trong một ơn lớn. Giờ đây chúng con chờ đợi lời của Đức Thánh Cha. Biết rằng Đức Thánh Cha ước mong có một cuộc đối thoại, các linh mục cũng đã chuẩn bị các câu hỏi.

Ngỏ lời với mọi người Đức Thánh Cha nói: ”Tôi đã chuẩn bị một bài diễn văn, nhưng tôi sẽ trao cho Đức Giám Mục. Xin cám ơn rất nhiều về sự tiếp đón này. Tôi hài lòng và tôi cảm thấy mình hơi có lỗi, vì đã tạo ra bao nhiêu vấn đề trong ngày lễ thánh bổn mạng của giáo phận. Nhưng tôi đã không biết điều này. Khi tôi điện thoại cho Đức Giám Mục để nói với ngài là tôi muốn đến thăm với tư cách cá nhân một người bạn là mục sư Traettino, Đức Cha đã nói với tôi: ”A, chính trong ngày lễ bổn mạng”. Và tôi nghĩ ngay: ”Ngày hôm sau báo chí sẽ nói: ”Trong ngày lễ bổn mạng giáo phận Caserta Đức Giáo Hoàng đã đến thăm các anh em tin lành.” Tựa đề hay qúa có phải không? Và như thế chúng tôi đã sắp xếp câu chuyện hơi vội vã một chút, nhưng Đức Giám Mục đã giúp tôi và cả các nhân viên Phủ Quồc Vụ Khanh nữa. Tôi đã nói với vị phụ tá Quốc Vụ Khanh khi tôi gọi cho ngài: ”Xin làm ơn lấy cái dây ra khỏi cổ cho tội”. Và vị ấy đã làm tốt. Xin cám ơn các cha về những câu hỏi các cha sẽ đưa ra, chúng ta có thể bắt đầu được rồi. Các cha cứ hỏi rồi tôi sẽ xem, nếu chúng ta có thể dồn hai ba cầu vào một, nếu không thì tôi sẽ trả lời từng câu hỏi một.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con xin cám ơn. Con là linh mục Pasquariello, cha chính giáo phận Caserta. Xin hết lòng cám ơn Đức Thánh Cha đã đến thăm Caserta. Con muốn hỏi thiện ích mà Đức Thánh Cha đang đem lại cho Giáo Hội với các bài giảng thường ngày, các tài liệu chính thức, đặc biệt là Thông điệp ”Niềm Vui Phúc Âm” đều mang dấu ấn sự hoán cải tinh thần, thân tình, cá nhân. Theo thiển ý con đó là một cuộc cải cách chỉ liên quan tới lãnh vực thần học, chú giải Thánh Kinh và triết lý. Nhưng bên cạnh đó cũng cần phải lôi cuốn dân Chúa vào cuộc nữa. Vấn đề là trong giáo phận của chúng con, là giáo phận đã có từ 900 năm nay, các ranh giới thật vô lý. Vài phần đất của tỉnh bị chia một nửa với giáo phận Capua và với giáo phận Acerra. Nhà ga xe lửa thành phố Caserta, cách tòa thị sảnh gần một cây số, lại thuộc Capua. Con xin Đức Thánh Cha một can thiệp với giải pháp để các cộng đoàn của chúng con khỏi phải đau khổ vì các di chuyển vô ích và để cho sự hiệp nhất mục vụ của cộng đoàn khỏi phải khó khăn. Rõ ràng là trong số 10 Thông điệp ”Niềm vui Phúc Âm” Đức Thánh Cha khẳng định rằng đây là các chuyện thuộc tòa Giám Mục. Nhưng con còn nhớ cách đây 47 năm khi con còn là linh mục trẻ, chúng con đã cùng Đức ông Roberti, xuất thân từ Phủ Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh, lên trình bầy vấn đề ở Phủ Quốc Vụ Khanh, thì được trả lời là: ”Các cha sắp xếp với các Giám Mục đi, rồi chúng tôi sẽ ký”. Thật là hay, nhưng mà khi nào các Giám Mục mới đồng ý với nhau, thưa Đức Thánh Cha?

Đáp: Có vài sử gia của Giáo Hội nói rằng trong vài Công Đồng các Giám Mục cũng còn đánh nhau nữa, nhưng rồi lại đồng ý với nhau. Và đây là môt dấu chỉ xấu. Thật là xấu, khi các Giám Mục nói xấu nhau, hay vào hùa với nhau. Tôi không nói là phải có sự hiệp nhất tư tưởng hay tu đức, bởi vì đây là điều tốt, nhưng tôi nói ”theo đuôi nhau” trong nghĩa tiêu cực của từ này. Điều này xấu, vì nó bẻ gẫy sự hiệp nhất trong Giáo Hội. Điều này không phải là của Thiên Chúa. Là Giám Mục chúng tôi phải nêu gương hiệp nhất, mà Chúa Giêsu đã xin Thiên Chúa Cha ban cho Giáo Hôi. Không thể đi nói xấu nhau được: ”Ông này làm thế này, ông kia ở đó làm thế nọ”. Hãy đi nói thẳng vào mặt nhau. Các cha ông của chúng ta trong các Công Đồng đánh nhau, và tôi thích họ la hét nhau, rồi ôm nhau làm hòa hơn là đi nói xấu, nói chùng nói lén nhau. Đó là nguyên tắc chung.

Trong sự hiệp nhất của Giáo Hội sự hiệp nhất giữa các Giám Mục là điều quan trọng. Thế rồi, cha cũng nhấn mạnh một con đường mà Chúa đã muốn cho Giáo Hội. Sự hiệp nhất này giữa các Giám Mục là sự hiệp nhất tạo thuận tiện cho việc thỏa thuận với nhau trên các điều này điều nọ. Trong một nước kia, không phải tại Italia đâu, nhưng ở một phần khác của thế giới, có một giáo phận có ranh giới được vạch lại, nhưng vì lý do đặt kho tàng của nhà thờ chính tòa, thế là xảy ra tranh chấp kiện tụng nhau lên tới các tòa án kéo dài hơn 40 năm trời. Chỉ vì tiền thôi: thật là không hiểu nổi! Và điểm này là nơi ma qủy mừng lễ! Chính nó được lợi. Thật là đẹp, khi cha nói rằng các Giám Mục phải luôn luôn đồng ý với nhau: nhưng đồng ý trong sự hiệp nhất, không phải trong sự đồng nhất. Mỗi người có đặc sủng của mình, mỗi người có kiểu suy tư, nhìn các sự vật: sự khác biệt đó đôi khi là kết qủa của sai lầm, nhưng biết bao lần nó là hoa trái của chính Thần Khí. Chúa Thánh Thần đã muốn rằng trong Giáo Hội có các đặc sủng khác nhau. Chính Thần Khí làm ra sự khác biệt, rồi lại thành công làm ra sự hiệp nhất: một sự hiệp nhất trong sự khác biệt của từng người, mà không ai phải mất đi bản vị của mính. Tôi cầu mong rằng điều cha nói đó tiến tới. Thế rồi chúng ta tất cả đều tốt lành, bởi vì chúng ta đều có nước Thánh Tẩy, chúng ta có Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng ta tiến tới.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con là linh mục Angelo Piscopo, cha sở giáo xứ Thánh Phêrô Tông Đồ và giáo xứ Ngai tòa thánh Phêrô. Câu hỏi của con là: trong Thôngđiệp ”Niềm vui Phúc Âm” Đức Thánh Cha đã mời gọi khích lệ và củng cố lòng đạo đức bình dân, là kho tàng của Giáo Hội công giáo. Đồng thời Đức Thánh Cha cũng cho thấy nguy cơ có thật của việc phổ biến một thứ kitô giáo cá nhân chủ nghĩa và tình cảm, chú ý nhiều hơn tới các hình thức truyền thống và mạc khải, mà lại thiếu các khía cạnh nền tảng của đức tin và thiếu ăn sâu vào cuộc sống xã hội. Đức Thánh Cha có thể gợi lên cho chúng con một kiểu mục vụ, thế nào để đừng gây thiệt hại cho lòng đạo đức bình dân, mà lại có thể tái trao ban quyền tối thượng cho Tin Mừng hay không? Con xin cám ơn Đức Thánh Cha.

Đáp: Người ta nghe nói rằng đây là thời điểm, trong đó lòng đạo hạnh đã xuống dốc, nhưng tôi không tin lắm. Bởi vì có các trào lưu, các trường đạo hạnh duy tâm tình, kiểu ngộ đạo thực thi một loại mục vục giống một lời cầu nguyện tiền kitô, một lời cầu tiền kinh thánh, và thuyết ngộ đạo đã bước vào trong Giáo Hội qua các nhóm đạo đức duy tâm tình ấy: tôi gọi điều này là chủ thuyết duy tâm tình. Chủ thuyết duy tâm tình không tốt, nó là một điều cho tôi, tôi an tâm, tôi cảm thấy mình tràn đầy Thiên Chúa. Nó cũng giống phong trào Thời Mới. Có lòng đạo hạnh, đúng, nhưng là một thứ đạo hạnh ngoại giáo, hay cả lạc giáo nữa. Chúng ta không được sợ hãi nói lên từ này, bởi vì thuyết ngộ đạo là một lac giáo, nó đã là lạc giáo thứ nhất trong Giáo Hội. Khi tôi nói tới lòng đạo hạnh, tôi nói về kho tàng đạo đức, với biết bao nhiêu giá trị, mà Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã miêu tả trong Tông huấn ”Loan báo Tin Mừng”. Các cha hãy nghĩ tới tài liệu Aparecida của Hội nghị lần thứ V của Liên Hội Đồng Giám Mục châu Mỹ Latinh, trong đó ở đoạn cuối cùng, phải lui lại đàng sau 40 năm để lấy lại một đoạn của Tông huấn, là tài liệu mục vụ thời hậu công đồng vẫn còn rất thời sự. Trong tài liệu này, Đức Phaolô VI miêu tả lòng đạo đức bình dân bằng cách khẳng định rằng đôi khi cần phải phúc âm hóa nó. Vâng, bởi vì cũng như mọi lòng đạo đức, nó có nguy cơ sai lạc, và không diễn tả đức tin mạnh mẽ.

Nhưng lòng đạo đức mà người dân có, lòng đạo đức đi sâu vào trong con tim với bí tích Rửa Tội là một sức mạnh khổng lồ, tới độ dân Chúa có lòng đạo đức này, nói chung, không thể sai lầm, nó chắc chắn, như khẳng định trong số 12 của Hiến chế về Giáo Hội. Lòng đạo đức bình dân nảy sinh từ ý thức của đức tin, mà tài liệu công đồng nói tới và hướng dẫn trong việc sùng kính các Thánh, Đức Mẹ, cả qua các kiểu diễn tả dân ca vũ, trong nghĩa tốt của từ này. Vì thế lòng đạo đức bình dân một cách nền tảng được hội nhập văn hóa, không thể là một lòng đạo đức được làm trong phòng thí nghiệm, nhưng luôn luôn nảy sinh từ cuộc sống. Người ta có thể phạm các lỗi nhỏ, vì thế cần phải tỉnh thức, nhưng lòng đạo hạnh bình dân là một dụng cụ rao truyền Tin Mừng.

Chúng ta hãy nghĩ tới các người trẻ ngày nay. Người trẻ, ít nhất là trong kinh nghiệm tôi đã có trong giáo phận, giới trẻ, các phong trào giới trẻ tại Buenos Aires đã không hoạt động. Tại sao vậy? Người ta đã nói với họ rằng chúng ta hãy họp nhau để nói chuyện... và sau cùng thì giới trẻ buồn chán. Nhưng khi các cha xứ tìm ra con đường lôi cuốn giới trẻ trong các cuộc truyền giáo nhỏ, đi truyền giáo trong kỳ hè, dậy giáo lý cho những người cần, trong các vùng hẻo lánh xa xôi không có linh mục, khi đó giới trẻ tham gia. Người trẻ muốn kiểu tác nhân truyền giáo này và từ đó họ học sống một hình thức đạo có thể gọi là đạo đức đức bình dân: việc tông đồ truyền giáo của người trẻ cũng có thể nói là đạo đức bình dân. Đức Phaolô VI nói: lòng đạo đức bình dân tích cực nó là một ý thức của đức tin sâu đậm, mà chỉ những người đơn sơ và khiêm tốn mới có khả năng có. Và điều này thật là lớn lao! Chẳng hạn trong các đền thánh người ta thấy xảy ra các phép lạ.

Ngày 27 tháng 7 hằng năm tôi đều đến Đền thánh Pantaleone ở Buenos Aires và giải tội từ sáng. Nhưng khi trở về nhà tôi được đổi mới nhờ kinh nghiệm này, tÔi trở về nhà xấu hổ vì sự thánh thiện mà tôi đã tìm thấy nơi các tín hữu sơn đơn sơ này, có tội nhưng thánh thiện, bởi vì họ nói lên các tội của họ và kể lại họ sống ra sao, con trai con gái họ có vấn đề gì, hay người này người kia có khó khăn nào, họ đi thăm các bệnh nhân làm sao. Tỏa sáng ra một ý thức tin mừng. Người ta tìm thấy các điều này trong các Đền thánh. Các tòa giải tội tại các Đền thánh là một nơi canh tân cho chúng ta là các linh mục giám mục: nó là một khóa học canh tân tinh thần vì tiếp xúc với lòng đạo đức bình dân. Khi họ đến xưng tội, các tín hữu kể cho bạn nghe các bần cùng của họ, nhưng bạn thấy đàng sau các bần cùng ấy ơn thánh Chúa hướng dẫn họ tới thời điểm này. Việc tiếp xúc này với dân Chúa cầu nguyện, hành hương biểu lộ đức tin của họ trong hình thức đạo đức này, giúp chúng ta biết bao nhiêu trong cuộc sống linh mục của chúng ta.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, con đã là học sinh được các cha dòng Tên đào tạo văn hóa và linh mục. Căn tính của linh mục trong thiên niên kỷ thứ ba là quân bình nhân bản và tinh thần, ý thức truyền giáo, rộng mở đối thoại với các tôn giáo khác cũng như đối với những người không có tôn giáo. Đức Thánh Cha đã làm một cuộc cách mạng về ngôn ngữ, kiểu sống, thái độ hành xử và chứng tá liên quan tới các đề tài quan trọng nhất trên bình diện quốc tế, cả đối với những người vô thần và những người sống xa Giáo Hội công giáo. Con xin phép hỏi Đức Thánh Cha: trong xã hội tiến triển sinh động và xung khắc và thường xa cách các giá trị tin mừng này, làm sao Giáo Hội cầu mong lớn lên và phát triển lại thường chậm chạp như vậy? Cuộc cách mạng ngôn từ, ý nghĩa, văn hóa và chứng tá tin mừng của Đức Thánh CHa đang khơi dậy trong các lương tâm một cuộc khủng hoảng hiện sinh đối với các linh mục chúng con. Xin Đức Thánh Cha gợi lên cho chúng con các con đường sáng tạo giúp thắng vươt hay ít ra làm giảm thiểu cuộc khủng hoảng mà chúng con cảm thấy này.

Đáp: Làm sao Giáo Hội đang lớn lên và phát triển có thể tiến tới? Cha đã đưa ra vài điều rồi: sự quân bình, thái độ rộng mở đối thoại. Cha đã nói một điều tôi rất thích: đó là óc sáng tạo: một từ thiên linh và nếu nó là nhân bản thì đó là một ơn của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã ra lệnh cho Adam ”Hãy đi và làm cho trái đất lớn lên. Hãy có óc sáng tạo. Đó cũng là giới răn mà Chúa Giêsu đã ban cho các môn đệ trong các tương quan với Do thái giáo: thánh Phaolô đã là một người có óc sáng tạo; thánh Phêrô đã làm một điều mới mẻ, sáng tạo. Lời nói là sự sáng tạo. Làm sao tìm được sự sáng tạo này? Đây là điều kiện nếu chúng ta muốn sáng tạo trong Thần Khí, nghĩa là trong Thần Khí của Chúa Giêsu. Không có con đường nào khác ngoài con đường cầu nguyện.

Một Giám Mục mà không cầu nguyện, một linh mục mà không cầu nguyện thì đã đóng cửa, thì đã đóng con đường của óc sáng tạo. Chính trong lời cầu nguyện khi Chúa Thánh Thần làm cho bạn nghe được một điều, thì ma qủy tới làm cho bạn nghe thấy một điều khác. Nhưng cầu nguyện là điều kiện để tiến tới. Cả khi nhiều lúc xem ra lời cầu có buồn chán đi nữa. Lời cầu quan trọng biết bao. Không phải chỉ là lời cầu nguyện của kinh thần vụ và phụng vụ Thánh Lễ, thanh thản, sốt mến, lời cầu cá nhân với Chúa. Nếu chúng ta không cầu nguyện có lẽ chúng ta sẽ là các doanh nhân mục vụ và tinh thần, nhưng Giáo Hội mà không có lời cầu nguyện thì trở thánh một tổ chức phi chính quyền, mà không được xức dầu của Thần Khí. Lời cầu nguyện là bước đầu tiên bởi vì đó là rộng mở cho Thiên Chúa để có thể rộng mở cho tha nhân. Chính Chúa nói cho bạn phải đi đây đi kia, làm cái này cái nọ và dấy lên óc sáng tạo, khiến cho nhiều vị Thánh phải trả giá mắc mỏ. Hãy nghĩ tới chân pưhớc Antonio Rosmini, người đã viết tác phẫm ”Năm vết thương của Giáo Hội”. Ngài đã là một người có óc phê bình sáng tạo, bởi vì đã cầu nguyện và đã viết những gì Chúa Thánh Thần đã cho cảm thấy. Nhưng chính vì thế mà ngài đã phải vào tù tinh thần, nghĩa là nhà của ngài: không thể nói, không thể dậy dỗ, không thể viết, các sách của ngài bị xếp vào danh sách các sách cấm đọc. Nhưng ngày nay ngài là chân phước.

Biết bao nhiêu lần sự sáng tạo đem theo thập giá, nhưng khi phát xuất từ lời cầu nguyện, nó đem lại hoa trái. Đây không phải sự sáng tạo kiểu ”cách mạng” thời thượng ngày nay không phải là của Thần Khí, nhưng là óc sáng tạo đến từ Thần Khí và nảy sinh từ lời cầu nguyện. Nó có thể tạo ra các vấn đề cho bạn. Sự sáng tạo đến từ lời cầu nguyện có một chiều kích nhân chủng của sự siêu việt, bởi vì qua lời cầu nguyện bạn rộng mở cho sự siêu việt, cho Thiên Chúa. Nhưng cũng có sự siêu việt rộng mở cho tha nhân. Không cần phải là một Giáo Hội đóng kín trong chính mình, chỉ nhìn lỗ rốn của mình, một Giáo Hội tự quy chiếu về mình, nhìn chính mình và không có khả năng siêu việt. Sự siêu việt hai chiều rất quan trọng: hướng tới Thiên Chúa và hướng tới tha nhân. Ra khỏi chính mình không phải là một cuộc phiêu lưu mạo hiểm, nhưng là một lộ trình mà Thiên Chúa đã chỉ cho con người ngay từ đầu khi Thiên Chúa nói với tổ phụ Abraham: ”Hãy rời bỏ đất của ngươi”. Ra khỏi mình. Khi tôi ra khỏi mình, tôi gặp gỡ Thiên Chúa và tha nhân. Nhưng phải gặp tha nhân làm sao từ xa hay từ gần. Cần phải gặp họ từ gần. Sự sáng tạo, sự siêu việt và sự gần gũi. Sự gần gũi là một từ chìa khóa. Gần gũi không hoảng sợ. Khi thấy các ngẫu tượng tại Athènes thánh Phaolô đã không hoảng sợ, nhưng đến gần và trích cả các thi sĩ Hy lạp nữa. Mgài tới gần một nền văn hóa, gần con người gần kiểu suy tư, các khổ đau và các thù hận của họ. Biết bao lần sự gần gũi là một việc hãm mình, bởi vì chúng ta phải nghe các điều nhàm chán, các điều xúc phạm.

Cách đây hai năm có một linh mục thuộc tổng giáo phận Buenos Aires đi truyền giáo tại một giáo phận miền nam trong vùng từ nhiều năm nay không có linh mục công giáo, nhưng có các người tin lành. Cha ấy kể cho tôi nghe rằng cha đến thăm một phụ nữ, hiệu trưởng trường học vùng đó. Bà mời cha ngồi rồi bắt đầu chửi cha rất dữ: ”Các cha đã bỏ rơi chúng tôi một mình, tôi cần Lời Chúa nên tôi đã phải tham dự phụng tự tin lành và tôi đã theo tin lành”. Vị linh mục này trẻ tuổi, cầu nguyện nhiều và rất hiền dịu. Khi bà nọ đã ngưng chửi bới cha liến nói: ”Thưa bà tôi chỉ xin nói một lời thôi: ”Xin lỗi. Xin bà tha lỗi cho chúng tôi. Chúng tôi đã bỏ đàn chiên”. Và bà nọ đổi giọng ngay. Bà mời cha uống cà phê. Vị linh mục cũng không đề cập tởi vấn đề tôn giáo thật. Và khi ngài chuẩn bị ra về bà ta nói: ”Xin cha dừng lại và đến đây”. Bà đưa cha vào phòng ngủ và kéo hộc tủ ra, bên trong có hình Đức Mẹ và nói: ”Tôi đã không bao giớ bỏ Mẹ. Tôi đã dấu vào đây vì ông mục sư, nhưng trong nhà có Đức Mẹ”. Câu chuyện dậy cho chúng ta biết rằng sự gần gũi sự dịu hiền đã khiến cho phụ nữ đó giao hòa với Giáo Hội. Nhưng tôi đã hỏi cha ấy câu chuyện kết thúc ra sao, mà đáng lý ra không bao giờ được hỏi. Cha cho biết ngài đã không hỏi gì cả cũng không mời bà trở lại vớ Giáo Hội công giáo. Bà ta tiếp tục tham dự các buổi phụng tự tin lành. Nhưng cha nói: ”Bà là một người cầu nguyện, xin Chúa Giêsu làm”.

Gần gũi cũng có nghĩa là đối thoại. Cần đọc Thông điệp ”Giáo Hội Người” của Đức Phaolô VI nói về đối thoại. Đối thoại thật là quan trọng. Nhưng để đối thoại cần phải có hai điều: khởi hành từ căn tính của mình và hiểu người khác, không lên án tiên thiên. Nếu tôi không chắc chắn về căn tính của mình mà đi đối thoại, tôi sẽ lẫn lộn niềm tin của tôi. Mỗi một người đều có cái gì đó để cho chúng ta, lich sử, hoàn cảnh sống của họ, chúng ta phải lắng nghe nó. Rồi sự thận trọng cảu Chúa Thánh Thần sẽ cho chúng ta biết phải trả lời thế nào. Đối thoại không phải là hộ giáo. Đối thoại là nhân bản, các con tim và các linh hồn nói chuyện với nhau. Đừng sợ hãi đối thoại với bất cứ ai. Có người nói chơi rằng thánh Philippo Neri, tôi không nhó rõ vị thánh nào, có khả năng đối thoại với cả ma qủy. Tại sao vậy? Bởi vì người có sự tự do lắng nghe tất cả mọi người, nhưng khởi hành từ căn tính riêng. Ngài rất chắc chắn. Nhưng chăc chắn về căn tính của mình không có nghĩa là chiêu dụ tín đồ. Chiêu dụ tín đồ là một cái bẫy mà Chúa Giêsu cũng lên án. Giáo Hôi không lớn lên vì chiêu dụ tín đồ, nhưng vì lôi kéo. Lôi cuốn là sự thấu hiểu được Chúa Thánh Thần hướng dẫn.

Như thế gương mặt của linh mục trong thế kỷ tục hóa này là một người có óc sáng tạo thực thi lệnh truyền của Thiên Chúa là ”tạo dựng các sự vật” một người của sự siêu việt với Thiên Chúa qua lời cầu nguyện và với tha nhân, một con người của sự gần gũi dân chúng. Một linh mục không làm cho người ta xa lánh.

Hỏi: Thưa Đức Thánh Cha, câu hỏi của con liên quan tới nơi sống là giáo phận, với các Giám Mục và trong tương quan với các anh em linh mục. Ngày nay dân chúng chờ đợi nơi các linh mục một chứng tá rõ ràng, cởi mở và tươi vui. Như vậy theo Đức Thánh Cha đâu là nét chuyên biệt và nền tảng của một nền tu đức của linh mục giáo phận? Xem ra con nhớ đã đọc ở đâu lời Đức Thánh Cha nói rằng: ”linh mục không phải là người chiêm niệm”. Đức Thánh Cha đã mời gọi cho ”các sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần”. Con không biết Đức Thánh Cha có thể cho chúng con một hình ảnh cần chú ý cho sự tái sinh và sự gia tăng hiệp thông của giáo phận chúng con không. Điều con chú ý là làm sao các linh mục chúng con có thể trung thành với con người ngày nay, chứ không cho lắm với Thiên Chúa?

Đáp: Cha đã nói ”các sự mới mẻ của Chúa Thánh Thần”. Đúng thế. Nhưng Thiên Chúa là Thiên Chúa của các ngạc nhiên, Ngài luôn luôn khiến cho chúng ta ngạc nhiên. Khi đọc Phúc Âm chúng ta đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Chúa Giêsu luôn đi trước, tìm kiếm và chờ đợi chúng ta. Tôi không nhớ tiên tri Isaia hay tiên tri Giêrêmia nói Thiên Chúa giống như hoa hạnh nhân, là cây đầu tiên nở hoa vào mùa xuân. Thiên Chúa luôn luôn là Đấng đầu tiên.

Liên quan tới tu đức của linh mục giáo phận, Linh mục chiêm niệm, nhưng không phải như một đan sĩ chiêm niệm tại đan viện Certosa. Vị linh mục phải có một sự chiêm niệm, một khả năng chiêm niệm đối với Thiên Chúa cũng như đối với con người. Linh mục là một người nhìn, làm đầy đôi mắt và con tim của mình với sự chiêm niệm này: với Tin Mừng trước mặt Thiên Chúa, và với các vấn đề của con người trước con người. Linh mục chiêm niệm trong nghĩa đó. Nhưng không nên lẫn lộn với đan sĩ chiê mniệm.

Thế thì trung tâm nền tu đức của linh mục giáo phận ở đâu? Theo tôi đó là nơi tính cách giáo phận. Nghĩa là có khả năng rộng mở cho tính cách giáo phận. Tu đức của một tu sĩ là rộng mở cho Thiên Cháu và cho tha nhân trong cộng đoàn cho dù có nhỏ mấy đi nữa. Trái lại tu đức của linh mục giáo phận là rộng mở cho giáo phận tính. Còn các tu sĩ làm việc trong các giáo xứ thì phải có cả hai sự tùy thuộc, vì thế Bộ các dòng tu đang duyệt xét lại tài liệu ”Mutuae relationes”.

Giáo phận tính có nghĩa là có một tương quan với Giám Mục bản quyền và các anh em linh mục khác trong giáo phận. Linh mục giáo phận không thể tách rời khỏi Giám Mục. Vị Giám Mục dù có tính xấu đi nữa cũng là Giám Mục, và bạn phải tìm cách duy trì tương quan với ngài, cả trong thái độ không tích cực. Nhưng đây là luật trừ. Là linh mục giáo phận tôi có tương quan với Giám Mục, một tương quan cần thiết. Thật là rất ý nghĩa trong lễ truyền chức vị linh mục hứa vâng lời Đức Giám Mục và các người kế vị. Giáo phận tính có nghĩa là có một tương quan với Giám Mục cần phải thực thi và làm cho nó lớn lên. Trong đa số các trường hợp, nó không phải là một vấn đề tai họa mà là chuyện bình thường.

Thứ hai là tương quan với các linh mục khác với toàn linh mục đoàn. Không có tu đức linh mục giáo phân nào mà không có hai tương quan này. Chúng cần thiết. Có cha nói: ”với Giám Mục thì tôi không có vấn đề, nhưng tôi không đi họp với các linh mục vì họ nói các chuyện tầm phào”. Nhưng với thái độ này là bạn thiếu tinh thần tu đức thực sự của linh mục giáo phận. Tất cả là ở đó: đơn sơ nhưng không dễ dàng. Bởi vi mỗi người có một kiểu suy nghĩ riêng nhưng có thể thảo luận với nhau. Nếu cần to tiếng thì cứ to tiếng. Nhưng khi ngoại giao bước vào trong hai tương quan này thì không có Thần Khí Chúa, bởi vì thiếu tinh thần tự do. Cần phải có can đảm nói: ”Tôi không nghĩ như thế, tôi nghĩ khác” và cũng cần phải có sự khiêm tốn nhận một sửa lỗi. Đây là điều rất quan trọng. Và Ai là kẻ thù lớn nhất của hai tương quan này? Các bép xép. Biết bao nhiêu lần chúng ta có cám dỗ này trong mình, và ma qủy biết là hạt giống đó đem lại bộng hạt và nó gieo tốt. Và tôi nghĩ không biết nó có phải là một hậu qủa của một cuộc sống độc thân cằn cỗi, không phong phú không. Một người cay đắng không phong phú và bép xép, nói xấu nói hành người khác. Đó là một không khí không tốt. Chính nó ngăn cản tương quan với Giám Mục và với linh mục đoàn. Các bép xép là kẻ thủ mạnh nhất của giáo phận tính, nghĩa là nền tu đức linh mục giáo phận. Nếu bạn là người trưởng thành và thấy nơi người anh em linh mục điều bạn không thích hay tin rằng sai, hãy đi nói với anh ấy, hay nều thấy anh ấy không chịu được sự sửa lỗi thì trình với Giám Mục hay một người bạn thân ơn của linh mục đó để họ có thể giúp cha ấy sửa mình. Nhưng đừng nói với các người khác: bởi vì điều đó làm hại nhau. Ma qủy hạnh phúc với ”bữa tiệc đó”, vì chính như thế mà nó tấn công trung tâm tu đức của hàng giáo sĩ giáo phận. Đối với tôi các bép đép gây ra biết bao nhiệu là thiệt hai. Chúng đã là một thực tại hiện diện trong thời Giáo Hội khai sinh, chứ không phải là điều mới lạ sau Công Đồng, bởi vì ma qủy không muốn rằng Giáo Hội là một người mẹ phong phú, hiệp nhất và tươi vui. Khi các tương quan giữa linh mục và Giám Mục, giữa linh mục và linh mục đoàn tốt đẹp, thì hoa trái là niềm vui, là dấu chỉ mọi sự hoạt động tốt đẹp. Trong khi sự cay đắng là đấu chỉ không có tinh thần tu đức giáo phận đích thực. Có một lần nọ một linh mục nói với tôi: ”Con thấy biết bao lần chúng ta là một Giáo Hội của những người giận dữ, luôn luôn giận dữ người này chống lại người kia. Chúng ta luôn có chuyện để giận dữ”.

Điều này đem lại buồn sầu và cay đắng: không có niềm vui. Khi trong giáo phận chúng ta thấy một linh mục sống giận dữ căng thẳng như thế chúng ta nghĩ: vị này ăn sáng với giấm chua, buổi trưa ăn rau với giấm chua và ban chiều uống chanh chua”. Linh mục đó là hình ảnh Giáo Hội của những người giận dữ. Người ta có thể giận dữ và cũng cần giận dữ một lần. Nhưng tình trạng giận dữ không phải là của Chúa và nó đem lại sự buốn sầu và không hiệp nhất.

Sau cùng là trung thành với Thiên Chúa và với con người đó là hai chiều kích cửa sự siêu việt mà chúng ta đã đề cập tới trên kia. Trung thành với Thiên Chúa, tìm kiếm Người, rộng mở cho Người trong lời cầu nguyện, để rồi rộng mở cho con người với sự tôn trọng, phục vụ con người và kiên nhẫn có lời nói đúng đắn với con người.

(SD 27-7-2014)

Linh Tiến Khải

Nguon:http://vietvatican.net

Từ vô thần sang Công giáo: Một câu chuyện của nghi ngờ, hiếu kỳ và cuối cùng là niềm vui


Người ta ước tính rằng khoảng 2 phần trăm của dân số thế giới là người vô thần. Trong nhiều năm, Jennifer Fulwiler, là một người trong số đó. Cô lớn lên trong một gia đình hạnh phúc nhưng vô tín ngưỡng. Thậm chí, cô tin rằng tôn giáo được dựa trên một câu chuyện cổ tích và Kitô giáo là một tôn giáo nguy hiểm. 



Jennifer Fulwiler, tác giả cuốn “Something Other Than God”, nghĩa là “Còn gì khác ngoài Thiên Chúa”, nói:

"Vâng, tôi đã từng xem Kitô giáo như một cái gì đó nguy hiểm và tôi thực sự muốn khuyến khích mọi người quên đi hệ thống niềm tin nguy hiểm này." 

Trong cuốn sách của mình, " Còn gì khác ngoài Thiên Chúa ", cô chia sẻ hành trình của mình. Tất cả mọi thứ từ sự thờ ơ, tới sự hiếu kỳ và cuối cùng là niềm vui. Cô nói rằng tất cả mọi thứ đã thay đổi khi cô và chồng có đứa con đầu tiên. Cô bắt đầu đặt ra nhiều câu hỏi hơn, mà chủ nghĩa vô thần không có thể trả lời. 

Jennifer giải thích:

"Chủ nghĩa vô thần nói rằng cuộc sống của con người chẳng qua chỉ là tình cờ ngẫu nhiên của một chuỗi những phản ứng hóa học và điều đó thực sự trái ngược với kinh nghiệm của tôi về cuộc sống và sự gặp gỡ với những người khác." 

Sau khi đọc tất cả các loại sách tôn giáo, với nhiều bất ngờ, cô tìm thấy sự thật trong Kitô Giáo. Cuối cùng cô và chồng cô đã trở thành người Công Giáo. Nhìn lại, cô cho biết cuộc sống của cô bây giờ là hoàn toàn khác trước đây. 

Jennifer nói thêm:

"Khi tôi còn là một người vô thần, tôi nghĩ rằng ý nghĩa của cuộc sống là phải có càng nhiều tiền càng tốt. Nhưng tôi nhận thấy không bao giờ là đủ. Ao ước được thăng chức nhưng khi được rồi, tôi lại muốn trèo lên cao hơn nữa. Có xe đẹp, tôi lại muốn có xe đẹp hơn. Tôi đã luôn luôn tìm kiếm một điều khác nữa."

Kể từ đó, đức tin của tôi đã phát triển và cả gia đình cô cũng đón nhận đức tin. Cô vẫn giữ liên lạc với một số bạn bè vô thần. Họ có thể không đồng ý về những gì là chân lý, nhưng họ nhìn nhận một sự thật rằng cô đã tìm thấy niềm tin thông qua lý trí. 

Jennifer nói tiếp:

"Tôi nghĩ rằng người Công Giáo đôi khi có chút do dự trước các cuộc đối thoại thân thiện với những vô thần, bởi vì họ có thể nghĩ rằng ‘Tôi không muốn nhìn vào những lập luận vô thần quá nhiều vì nó có thể làm lung lay đức tin của tôi và tôi có thể không thích những gì tôi tìm thấy. Tôi luôn luôn khuyến khích mọi người theo lời khuyên của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô Đệ Nhị: đừng sợ. Trước những thách đố của người vô thần, hãy khám phá mọi khả năng và bạn sẽ tự tin hơn nơi đức tin Công Giáo của mình. "
Đặng Tự Do8/2/2014
Nguon:http://vietcatholic.com/News/Html/128170.htm

Nhân phẩm trong tư tưởng Kant và Gioan Phaolô II

Lm. Nguyễn Hữu Thy7/4/2014
Những tương đồng và những khác biệt về nhân chủng học cũng như về đạo đức học giữa Kitô giáo và xã hội thế tục được bày tỏ rõ ràng trong quan niệm về nhân phẩm của triết gia Immanuel Kant và của thánh GH Gioan Phaolô II mà chúng tôi muốn trình bày tổng quát trong những dòng tóm tắt sau đây.

Quan điểm triết học Kitô giáo chủ trương trả lại cho con người „dignitas humana“ – nhân phẩm bất khả nhượng, mà Đấng Tạo Hóa đã ban tặng cho mỗi người khi Người dựng nên họ và cho họ được mang trên mình hình ảnh của Người (x. St 1,27). Nhân phẩm của con người lại một lần nữa đã được chính Thiên Chúa phê nhận và đề cao một cách đặc biệt trong biến cố Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể mặc xác phàm để hiện thực kế hoạch cứu độ nhân loại. 

Vâng, là phản ảnh của Thiên Chúa Tối Cao, tất nhiên con người được thủ đắc một nhân vị và phẩm giá bất khả xâm phạm, dù bởi xã hội, bởi môi trường ngoại cảnh hay bởi chính con người. Trong Đức Kitô, Thiên Chúa Làm Người, phẩm giá con người một lần nữa lại đã được Thiên Chúa chuẩn y qua một sự quan tâm hết sức đặc biệt, sự quan tâm đầy yêu thương của một Đấng Tạo Hóa đối với tạo vật của Người. Điều đó cũng muốn khẳng định rằng hình ảnh Thiên Chúa Tạo Hóa nơi và trong mỗi người không phải là một phẩm chất hay một sở hữu cá biệt của con người như một tài năng nào đó – ví dụ: khả năng hùng biện, ca hát, nghệ thuật, hội họa, v.v… –, nhưng là chính yếu tính của con người. 

Điều đó muốn nói rằng, cụm từ „hình ảnh Thiên Chúa nơi hay trong con người“ chỉ là một cách diễn tả của ngôn ngữ thông thường mà thôi, chứ không hiểu theo „ngôn ngữ gợi hình“, nghĩa là hình ảnh Thiên Chúa không hiện hữu trong con người như trong một cái gì đó – ví dụ như bức tượng trong đền thờ, chiếc áo treo trong tủ hay hơi thở trong một người, nghĩa là một thực thể mà người ta có thể tách biệt ra khỏi vị trí mà nó đang hiện hữu –, nhưng hình ảnh ấy cùng đồng hiện hữu với con người, hay nói đúng hơn, nó đồng hóa với chính con người: Con người là chính hình ảnh của Thiên Chúa Tạo Hóa! 

Nếu thế, nhân phẩm con người là bất khả nhượng và bất khả xâm phạm, nếu không, chính con người bị xâm phạm, và nhân phẩm không thể bị tách biệt ra khỏi con người, bởi vì tương tự như hình ảnh Thiên Chúa không thể bị tách biệt khỏi con người được, như đã nói trên. 

Đó chính là đỉnh điểm của ý niệm về phẩm giá tuyệt đối của con người. Bởi vì nhân phẩm, bởi vì phẩm giá con người được gắn liền với một hữu thể tuyệt đối, với Thiên Chúa, Đấng đã trao ban cho con người phẩm giá tuyệt đối ấy, vì Người tuyệt đối yêu thương con người. Con người có trách nhiệm tôn trọng và bảo toàn phẩm giá ấy – nơi mình cũng như nơi người khác – như một hành động tri ân chân thành để đền đáp lại tình yêu ấy của Thiên Chúa. „Tôi yêu nên tôi hiện hữu“ là một điều xác tín mà người ta thấy được hiện thực một cách cụ thể nơi con người Karol Wojtyla và sau này là ĐGH Gioan Phaolô II và còn hơn thế nữa: là đại thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, một điều xác tín mà người ta tìm gặp trong các công trình nghiên cứu triết học, trong các Tông Thư và các bút ký của ngài. 

Qua đó, chúng ta thấy rằng theo quan điểm triết học của Gioan Phaolô II, con người không phải là một hữu thể lẻ loi cô độc, nhưng trước hết là một hữu thể được liên kết chặt chẽ với một mạng lưới các tương quan: tương quan với Thiên Chúa và tương quan với đồng loại của mình. Và từ mạng lưới tương quan ấy cái phẩm giá tuyệt đối của con người được phát huy một cách đúng đắn như là một nhân vị.

Tình yêu phân biệt con người khỏi các tạo vật khác 

Trong công trình khảo cứu với tựa đề „Tình yêu và trách nhiệm“ của mình vào thập niên 1960, Karol Wojtyla đã từng phát biểu: „Nhân vị là một hữu thể khách quan, liên kết chặt chẽ với thế giới ngoại cảnh như một chủ thể nhất định và nhờ vào tình cảm và đời sống nội tâm, là nơi mà chủ thể ấy đâm rễ sâu. Ngoài ra, chính nhân vị ấy không chỉ được liên kết với thế giới thực tiễn hữu hình, nhưng còn được gắn bó với Thiên Chúa vô hình. Đó chính là một dấu chỉ muốn nói lên rằng nhân vị con người trong thế giới hữu hình là một thực thể hoàn toàn đặc biệt.“ Điều đặc biệt của nhân vị con người hệ tại ở chính lý trí và lương tâm, đây là hai tài năng giúp con người có được khả năng nhận thức và yêu thương. Chính khả năng biết yêu thương là đặc điểm phân biệt con người khỏi thiên nhiên không có nhân tính, Karol Wojtyla viết: „Chỉ duy con người mới có khả năng tham dự vào tình yêu.“

Cũng tương tự như thế đối với triết gia người Đức Immanuel Kant – khi còn theo học triết học Karol Wojtyla đã từng nghiên cứu các tác phẩm thời danh của Kant và đã phiên dịch một số ra tiếng Đức để dùng riêng –, chính khả năng cũng như sự sẵn sàng nhận thức và cảm thông những tâm tư nguyện vọng cũng như những nỗi buồn và đau đớn của kẻ khác(1) là yếu tố quyết định khiến cho hữu thể con người trở thành một nhân vị biết „kính trọng luật luân lý.“ Nền tảng của sự nhận thức và cảm thông kẻ khác là chính sự tri kỷ, tức sự tự nhận thức chính mình. Khi người ta càng cởi mở và thông thoáng với những cảm xúc của mình thì người ta càng dễ dàng hiểu và thông cảm được những tâm tư tình cảm của kẻ khác.(2) Như thế, sự cảm thông và nhận thức không chỉ đóng một vai trò trong quá trình tương quan tới những người khác, nhưng nó còn mang tính cách quan trọng ngay trong chính phạm vi tự tri kỷ và tự cảm thông với chính mình nữa.Theo quan niệm triết học Kant thì lý do của phẩm giá con người tương tự với ý niệm của nó về Thiên Chúa, tuy nhiên rất trừu tượng. Siêu việt tính của nhân phẩm là một cái chi „siêu nghiệm“, tức „thiên chức làm người“ hay „nhân tính.“ 

Trong khi đó, dựa vào sự quyết đoán minh bạch rõ ràng của Phúc Âm và của nền đạo đức luân lý mà Đức Giêsu đã mặc khải ra trong đó, quan điểm của Karol Wojtyla có lẽ còn thực tiễn hơn. Vâng, chính tình yêu tam cấp – tình yêu đối với Thiên Chúa, tình yêu đối với tha thể và tình yêu đối với chính mình – làm tăng trưởng phẩm giá con người một cách thực tiễn và đúng đắn nhất. Qua đó, chính con người tự cảm nhận được chính mình trước hết trong tương quan với Thiên Chúa, một sự tương quan làm nền tảng cho mọi tương quan khác. Đối với Gioan Phaolô II, chính sự tương quan với Thiên Chúa đã làm cho hôn nhân trở thành biểu tượng của một tình yêu đã thiết lập nên một tương quan cụ thể trong „định hướng theo sự thiện hảo.“

Dưới ảnh hưởng của Kant, quan niệm thế tục về phẩm giá con người hầu như được khoanh vùng trong các quan hệ nhân loại, nghĩa là nhân phẩm chỉ mang tính cách nhân bản thuần túy, hay nói cách khác, một nhân phẩm không còn được gắn bó với nền tảng thần quyền, nhưng tìm cách đạt tới sự độc lập tự trị và sự tự quyết của một cá thể không còn muốn khép mình trong các giới răn Thiên Chúa cũng như các giới luật tự nhiên, nhưng tự đặt ra cho chính mình các luật lệ nhằm công nhận và củng cố bản sắc cũng như sự toàn vẹn của chính mình. 

Một quan niệm về nhân phẩm như vừa được đề cập tới – nếu người ta thực sự muốn đề cập một cách nghiêm túc ở đây tới nhân phẩm – sẽ không chỉ loại bỏ các khái niệm thuần túy tín ngưỡng mà còn loại bỏ cả sự đòi hỏi về tính tuyệt đối và tính bất khả nhượng, về đạo đức tính đặc biệt và về trách nhiệm cực kỳ nghiêm trọng của phẩm giá con người. Nhưng như đã đề cập tới ở trên, nhân phẩm mang tính chất tuyệt đối, vì nó phát xuất từ Thiên Chúa là Đấng Tuyệt Đối, nên nó trở thành bất khả xâm phạm. Nó đòi hỏi mọi nhà nước cũng như mọi đơn vị xã hội khác phải tuyệt đối tôn trọng và phải đặt nhân phẩm lên trên tất cả các quyền lợi và trật tự khác trong xã hội. Đó cũng là điều luật được ghi rõ ràng ngay từ đầu bộ luật hình sự của mỗi nhà nước.

Nếu được hiểu như thế, thì nhân phẩm mới thực sự có một chỗ đứng trong khuôn khổ trật tự của luật pháp, hay nói cách khác, thì phẩm giá con người mới thực sự được biện minh như là một khái niệm độc lập và có khả năng giải phóng con người ra khỏi cơ cấu nhằm mưu cầu lợi ích của xã hội nhân loại, dù là lợi ích chính trị hay kinh tế. Nhưng đó là điều khả dĩ, chỉ khi nào ý niệm về nhân phẩm, dù xuất phát từ ảnh hưởng tín ngưỡng hay xã hội thế tục, loại bỏ được phạm vi do các qui luật điều hợp và hướng tới phạm vi siêu việt, một phạm vi vượt khỏi „tầm tay“ khả năng tiếp cận tùy tiện của con người. Chính phạm vi siêu việt này phải đối mặt với hai khuynh hướng triết học:

1. Hoặc theo quan điểm triết học Karol Wojtyla: Phạm vi ấy biện minh cho con người như là một hữu thể có khả năng tiến tới tự siêu việt hóa chính mình, mà ngôn ngữ bình dân gọi là nỗ lực „nên thánh“, và đồng thời định hướng cho con người tìm về thực thể siêu nghiệm tuyệt đối, tức Thiên Chúa; 

2. Hoặc theo quan điểm triết học Immanuel Kant: Phạm vi ấy định hướng về một chủ thể tính siêu nghiệm, tức tiến tới một quyền lực siêu nghiệm nội tại trong chính con người.

Hay nói cách khác, hoặc: nhân phẩm mang tính chất tuyệt đối và bất khả nhượng, hoặc: ý niệm „nhân phẩm“ chỉ là một khái niệm của lý trí thuần túy và là một danh từ trống rỗng, vô nghĩa.

Theo I. Kant, nhân phẩm mang giá trị tối thượng

Trong tư tưởng triết học nền tảng của ông về siêu hình học luân lý, Kant hoàn toàn loại bỏ tất cả những tính chất khách quan hóa chủ thể, tức tất cả những tính chất dụng cụ hóa con người, vì theo Kant những quyền lợi cơ bản của con người không thể bị đánh giá sai được, dù để đạt tới một „mục đích tốt“ cũng không. Đối với Kant những hành động như thế là hoàn toàn phản luân lý. Dạng thức chuyên biệt của phạm trù quyết lệnh của Kant là: „Anh hãy hành động ra sao để khi anh sử dụng tính nhân đạo trong anh cũng như trong một người khác luôn luôn là mục đích, chứ không bao giờ là phương tiện.“(3) Con người tự bản chất là mục đích, con người là mục đích tự nội! Trong khi đó, ngược lại, nếu bất cứ ở đâu con người bị lợi dụng như phương tiện thuần túy, dù cho một mục đích cao thượng nào đó, thì lập tức nhân phẩm của họ bị xúc phạm trắng trợn. Đây là sự xác tín được tất cả mọi luật pháp các nhà nước đều ghi nhận ngay từ trang đầu. Phẩm giá con người bị xúc phạm khi chính con người cụ thể bị hạ thấp xuống hàng đối tượng, bị sử dụng như một phương tiện thuần túy, như một giá trị có thể thay thế được.(4) 

Ở một nơi khác, Kant còn xác quyết cách rõ ràng hơn: „Trong thế giới của những mục đích, tất cả đều: hoặc có một cái giá nào đó hoặc có một phẩm giá. Một cái gì đó có được một cái giá, thì người ta cũng có thể thay thế vào đó một giá trị khác tương đương. Ngược lại, khi một cái gì đó chứa đựng một giá trị cao quý vượt lên trên tất cả mọi giá trị, thì người ta không thể thay thế vào vị trí của nó bất cứ một cái gì khác có giá trị tương đương được, và cái giá trị cao quý vượt trên mọi giá trị cao quý khác, đó chính là nhân phẩm, là phẩm giá con người. Một cái gì đó còn có quan hệ với các khuynh hướng và điều kiện tất yếu của con người, thì có một thị giá; Và cái gì, dù không có quan hệ với điều kiện tất yếu, nhưng còn tùy thuộc vào một thị hiếu nào đó, nghĩa là còn chịu ảnh hưởng hay tùy thuộc vào các dữ kiện và các tác động của tâm lý, thì có được cái giá tình cảm; còn một cái gì đó lại là chính nguyên nhân hay điều kiện để một cái gì khác có thể trở thành mục đích cho chính mình, thì không chỉ có một giá trị tương đối, tức một cái giá, nhưng là chiếm hữu một giá trị nội tại, nghĩa là nhân phẩm.“ 

Tất cả những điều đó muốn nói rằng một phẩm giá (vô tận) thì không thể đồng thời lại có một cái giá (tương đối) được và như thế không thể có cái gì khác còn có thể đem so sánh được với nó. Vâng, chính con người là một hữu thể với một phẩm giá nội tại, một hữu thể có khả năng đặt ra những mục đích và tự vươn mình lên thành mục đích. Ở đây Kant muốn nói đến „nhân tính“ mà mỗi người đều chiếm hữu. Dĩ nhiên, Kant không muốn nói đến cái toàn khối những tổng hợp đúc kết nên con người thực nghiệm, nhưng ông muốn nói đến điều làm cho mỗi một con người (homo phaenomenon) thành con người thực sự trong chính mình (homo noumenon), tức chủ quan tính siêu nghiệm của nó. Chính chủ quan tính siêu nghiệm với đầy đủ ý thức và sự tự lập nơi mỗi người đòi buộc người ấy phải tôn trọng và tuân thủ luật luân lý vì phúc lợi chung của xã hội. Điều đó muốn nói rằng luật luân lý là nhịp cầu nối kết con người với xã hội đồng loại của mình.

Theo K. Wojtyla, tình yêu là nền tảng của nhân vị

Trong khi đó Karol Wojtyla thì đơn giản gọi trọng điểm và đích điểm của luân lý đạo đức là tình yêu, là đức ái. Bởi vì tình yêu làm cho mọi tương quan của con người đạt được thành tựu, vâng, chỉ có tình yêu mới làm cho con người thành nhân vị thực sự: „Nhân vị tìm gặp trong tình yêu sự sung mãn của bản thể mình, của sự hiện hữu khách quan của mình. Tình yêu là hành động làm phát huy sự hiện hữu của nhân vị một cách trọn vẹn nhất“(5), một điều được ẩn chứa trong chiều kích luân lý của sự hiện hữu, vì „Agapê“, tức tình yêu chân chính, trọng tâm „giới luật tình yêu“ của Đức Kitô, luôn nhằm tới sự thật và sự thiện hảo, và nhờ thế, con người ý thức được trách nhiệm của mình trong việc nỗ lực xây dựng cho cuộc sống chung được thành công, và không chỉ trong hôn nhân, nhưng cả trong xã hội nữa, một nơi mà tình cảm thân hữu hỗ tương – dù hiểu theo nghĩa philia hay eros(6) – giữa những nhân vị hay những nhóm các nhân vị tác nhân không luôn được thể hiện và được chấp nhận như một điều tất yếu. Trách nhiệm này chỉ có thể được chấp nhận và được thực thi trong sự tự do mà thôi, tương tự như từng được thể hiện trong tương quan tình yêu hoàn toàn tự nguyện giữa Thiên Chúa và con người.

Theo quan điểm của Karol Wojtyla thì con người hoàn toàn tự do, và vì thế có trách nhiệm. Vâng, con người chỉ có trách nhiệm, khi con người thực sự được tự do. Đó cũng là quan điểm của Kant. Nhưng trong khi theo Kant, tự do trước hết được hiểu là thoát khỏi sự ràng buộc và lệ thuộc, là sự độc lập và – theo nghĩa trách nhiệm – là pháp chế hầu để không quên bổn phận phải tôn trọng luật luân lý, thì đối với Karol Wojtyla tự do được hiểu là tự do để yêu thương, để từ bỏ chính mình hầu con người có thể gắn bó chặt chẽ và bền vững với Thiên Chúa – vì theo Kitô giáo, Thiên Chúa là một ngôi vị – và với nhau. Đó là một sự khác biệt cơ bản giữa Immanuel Kant và Karol Wojtyla. 

Điều đó cho thấy rằng ý niệm về yếu tính và phẩm giá con người được Immanuel Kant và Karol Wojtyla quan niệm và lập luận theo hai cách thức khác biệt. Tuy nhiên, giữa hai quan niệm vẫn có điểm gặp gỡ chung, khi cả hai cùng đồng quan điểm trong thái độ đạo đức của con người cần phải có đối với thiên nhiên, đối với môi trường ngoại cảnh. Chính phương thức humanitas, phương thức nhân bản của phạm trù quyết lệnh Kant hoàn toàn tương hợp với quan điểm Kitô giáo về nhân vị, một thực tại bất khả nhượng và bất khả tráo đổi hay lẫn lộn với bất cứ gì khác, ngay từ khởi đầu cho đến lúc kết thúc cuộc sống, tức từ khi được cưu mang trong dạ mẹ cho tới lúc chết tự nhiên. 

Lý do của sự hỗ trợ cho việc bảo vệ phẩm giá con người – sự sống con người trước khi sinh ra, cuộc sống con người tàn tật, đau ốm và già nua – chỉ nhìn nhận một nền tảng chắc chắn, đó là: 

• Sự thánh thiện của nhân vị được trào dâng từ nguồn thánh thiện vô biên của Thiên Chúa.

• Tình yêu đối với tha nhân, một tình yêu được phát xuất từ nguồn tình yêu vô tận của Thiên Chúa. Vì thế, tất cả mọi trật tự pháp lý của xã hội trần thế muốn mang đầy đủ tinh thần nhân bản chân chính và sâu xa, thì có thể và cần phải được sự hỗ trợ và củng cố của tinh thần Kitô giáo. Điều đó muốn nói rằng trong trường hợp này Immanuel Kant có thể học hỏi nơi Karol Wojtyla.

Quả là một dấu chỉ hoàn toàn tích cực, khi Karol Wojtyla, ĐGH Gioan Phaolô II được tôn phong lên bậc hiển thánh, vì điều đó biện minh một cách hùng hồn cho quan điểm về nhân phẩm và hệ thống tư tưởng triết học sâu xa và đầy nhân bản của ngài. Và vì thế, là một điều hoàn toàn hợp lý và hữu ích, nếu như các đại học tại các quốc gia trên khắp thế giới đem phổ biến hệ thống tư tưởng triết học của nhà đại tư tương Kitô giáo này qua các giáo trình cũng như lịch trình nghiên cứu của mình như các trường cao đẳng và các phân khoa thần học Công Giáo đã thực hiện. Hy vọng rằng điều cần thiết và hữu ích ấy sẽ được hiện thực trong một tương lai gần.

(Ghi nhớ Lễ Phong Thánh Gioan XXIII và Gioan Phaolô II: 27.04.2014)

Lm Nguyễn Hữu Thy
Nguon:http://vietcatholic.com/News/Html/125490.htm
___________________

1. x. J. A. Hall & F. J. Bernieri, Interpersonal Sensitivity, Theory and Measurement, London, 2001, trang. 21 tt. und Paul Ekman, Gefühle lesen, Spektrum Verlag 2007, trang. 249 (2. Auflage 2010, (Taschenbuch)); englischsprachiges Original 2003: Emotions revealed. Understanding faces and feelings.

2. x. Marshall B. Rosenberg "Gewaltfreie Kommunikation", (2011), trang. 171 tt.

3. X. Grundlegung zur Metaphysik der Sitten.

4. x. Kommentar zu Art. 1 Abs. 1 Grundgesetz, trong: Maunz, T./Dürig, G. (Hrsg): Grundgesetz. Kommentar. München 1958, Rn.58.

5. x. Karol Wojtyla (Johannes Paul II): Liebe und Verantwortung, eine ethische studie. Sách dày 420 trang. www.kath.net).

6. Philia (trong tiếng Hy Lạp là φιλíα philía) trong văn chương và triết học Hy-lạp thời thượng cổ có nghĩa là một hình thức tình yêu giữa những người bạn, hay nói đúng hơn, là tình bạn. Philia khác với Eros. Eros là tình yêu tính dục hay cũng được gọi là tình luyến ái xác thịt. Philia được đặt trên ba cơ sở: cả hai đối tác cùng có sở thích chung, cùng có niềm vui chung và cùng công nhận và chấp nhận lẫn nhau. Chính Aristote đã gọi thái độ công nhận và chấp nhận lẫn nhau là thái độ cao thượng nhất của philia.

Đời tu và hạnh phúc


Là con người, từ cổ chí kim, từ Đông chí Tây..., đủ mọi lứa tuổi, mọi thành phần, ai ai cũng đều mong muốn mình được hạnh phúc hoặc sờ chạm thấy hạnh phúc dù chỉ một chút. Thánh Tôma Aquinô cũng đã nói: “Theo bản tính tự nhiên, tất cả mọi người đều khát mong hạnh phúc” . Chính vì thế, mà nhiều người chấp nhận đánh đổi rất nhiều để cầu mong được hạnh phúc. Ngày nay, cũng đã có nhiều người tìm ra cho mình những kỹ năng để nâng niu và nắm giữ được hạnh phúc lâu dài. 

Tuy nhiên, điều họ mong muốn và tìm kiếm đó có đúng không hay chỉ là một sự mơ tưởng hoặc bị hiểu sai về hạnh phúc? Vậy hạnh phúc đích thực là gì và ở đâu?

1. Hạnh phúc là gì và ở đâu? 

Thực sự câu trả lời rất khó để khẳng định đâu là hạnh phúc; ai là người được hạnh phúc, và dựa vào tiêu chuẩn nào để cho rằng mình hạnh phúc! Lại càng khó hơn khi mỗi người đều có một quan điểm hay một khái niệm để mặc định cho nó. Đôi khi dẫn đến tình trạng uốn nắn hạnh phúc theo chủ ý khách quan của mình.

Nhưng như đã nói, hạnh phúc được mỗi người hiểu một cách khác nhau, nên rất khó thống nhất. Các trường phái hay tôn giáo cũng có những quan niệm khác nhau khi bàn về hạnh phúc.

Trong từ điển tiếng Việt khi nói về hạnh phúc thì viết: “Có được nhiều sung sướng, toại nguyện” . Còn theo ngôn ngữ triết học thì: “Tình trạng sung sướng của con người khi khuynh hướng được hoàn toàn thỏa mãn, về lượng, về phẩm, về lâu dài theo đúng bậc thang (hay là trật tự) giá trị” . Hoặc theo Bách khoa Toàn thư thì: “Hạnh phúc là một trạng thái cảm xúc của con người khi được thỏa mãn một nhu cầu nào đó mang tính trừu tượng. Hạnh phúc là một cảm xúc bậc cao, được cho rằng chỉ có ở loài người, nó mang tính nhân bản sâu sắc và thường chịu tác động của lý trí” .

Sự sung sướng, hay thỏa mãn có thể là cái gì đó nắm bắt được cách cụ thể như: tiền tài, danh lợi, sức khỏe, sắc đẹp, địa vị, uy thế, quyền lực, thành công, thỏa mãn ước muốn..., bởi vì người ta phỏng chiếu sự hạnh phúc dưới nhiều lăng kính chủ quan và có phần hiện sinh, nên đôi khi “thấy vậy mà không phải vậy”. Tôi theo góc độ và vị thế của tôi; anh theo chủ quan của anh. Mỗi người sẽ tùy thuộc vào quan điểm, hiểu biết và bậc sống của mình dựa trên nhu cầu về thể lý hay tâm linh để hình thành nên một quan niệm về hạnh phúc. 

Nhưng nếu chỉ có thế thì quan niệm của con người về hạnh phúc thật lệnh lạc vì nó không bám rễ sâu trong tâm hồn, nơi nội căn của con người. Hạnh phúc như thế, thì phải chăng không phải là hạnh phúc thật, bởi vì nó mang nặng tính chủ quan, phiến diện, nên con người cứ nhọc công tìm kiếm, và lòng tham vô đáy của con người biết đâu cho vừa, nên cứ phải đi tìm hoài, tìm mãi... Người đời thường có câu: “Con dao và cái nĩa không làm cho người ta ngon miệng” (De Sirvy). Còn trong nhà tu thì có ngạn ngữ: “Áo dòng không phải chân tu, hoa thơm nhân đức đời tu mới thành” hay: “chiếc áo không làm nên thầy tu”. 

Từ cái nhìn đó, mỗi người chúng ta hiểu được ngay rằng: những thứ bên ngoài thì không đem lại cho người ta hạnh phúc thật, còn những cái ở bên trong mới đem lại cho con người hạnh phúc. 

Như vậy, hạnh phúc là một cái gì đó cao quý, thiêng liêng, là vô hằng mà ai cũng mong muốn đạt được. Nó là một trạng thái nội tâm sâu xa được khởi đi từ nội căn chứ không phải thứ hạnh phúc bề ngoài do ngoại tại tác động. Còn khi nói đến hạnh phúc trong đời tu, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI đã nói khi gặp gỡ các linh mục và tu sĩ tại Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm mục vụ năm 2008: “Giáo Hội không cần có nhiều linh mục, tu sĩ chỉ đề có nhiều, nhưng Giáo Hội cần có các linh mục, tu sĩ hạnh phúc vì được là linh mục tu sĩ”. Rồi trong năm Đức Tin vừa qua, Giáo Hội cũng mời gọi con cái của mình: “Tái khám phá hành trình Đức Tin để làm sáng lên niềm vui, lòng phấn khởi được gặp gỡ Đức Kitô”. Tiếp theo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã quyết định chọn năm 2014 là năm: “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình”, qua đó các ngài mời gọi mọi thành phần dân Chúa sống tinh thần “Tân Phúc Âm Hóa Gia Đình để thông truyền Đức Tin”. 

Tất cả những lời giáo huấn của các đấng chủ chăn trong Giáo Hội luôn mời gọi mỗi người hãy cảm nghiệm được: “Evangelii Gaudium - Niềm Vui Tin Mừng”. Khi cảm nghiệm được niềm vui và hạnh phúc vì có Chúa ở cùng và sống với, mỗi người chúng ta mới có thể loan báo và lưu truyền Đức Tin cho thế hệ tương lai. 

Tuy nhiên, thành phần quan trọng trong sứ vụ này không ai khác là chính những người sống đời thánh hiến. Nhưng trước khi giúp cho người khác khám phá và tái khám phá niềm vui, hạnh phúc khi đi theo và gắn bó với Đức Kitô, thì chính những người được thánh hiến phải trở nên dấu chỉ về niềm hy vọng, hạnh phúc và niềm vui của mình cho người khác. 

2. Đời tu và hạnh phúc

Có một câu chuyện kể rằng: “Một ông vua giàu có nọ không bao giờ cảm thấy thỏa mãn, bởi vì tất cả tài sản mà ông có đều do sự miễn cưỡng đóng góp của thần dân. Ông tự so sánh mình với những người hành khất: người hành khất nhận được tiền của do lòng thương của người khác, còn ông, ông nhận được tiền do sự cưỡng bách.

Ngày nọ, ông vua giàu có đã cải trang thành người hành khất để cảm nghiệm được những đồng tiền bố thí... Thế là mỗi ngày Chúa Nhật, ông biến mình thành một người ăn xin lê lết trước cửa giáo đường. Ông được nhiều người giúp đỡ ông và tỏ lòng thương mến. Tối về, ông tự nghĩ: ‘bây giờ ta mới thực sự là người giàu có nhất trên đời, bởi vì tiền của ta nhận được là do lòng thương xót của con người, chứ không do một sự cưỡng bách nào’.

Một thời gian sau đó, ông gom góp tặng hết những gì mình có cho người nghèo trong vùng rồi chảy đi nơi khác. Ông cảm thấy hạnh phúc vô cùng, bởi vì lần đầu tiên ông cảm nghiệm được niềm vui của sự ban tặng. Ông hiểu được rằng cho thì có phúc hơn là nhận lãnh... Lần này, ông thốt lên với tất cả xác tín: ‘Tôi là người hạnh phúc nhất trên trần gian này’”.

Đời tu cũng thế, hạnh phúc không phải là ở trong một nhà dòng to lớn có bề dày về truyền thống, hay có những cơ sở hạ tầng vĩ đại, hoặc một giáo xứ lớn, những nơi giáo dân luôn tôn trọng, nâng đỡ và tạo điều kiện thuận lợi là hạnh phúc. Không! Hạnh phúc đời tu không phải như thế! Hạnh phúc trong đời tu chính là gắn bó với Chúa liên lỉ trong đời sống hằng ngày. 

Chỉ có sự gắn bó với Chúa, được biểu hiện qua đời sống cầu nguyện, chúng ta mới thấy được hạnh phúc nội tâm và niềm vui chia sẻ. 

Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo nói: “Cầu nguyện Kitô giáo là mối tương quan giao ước giữa Thiên Chúa và con người trong Đức Kitô” (x. GLHTCG số 2564). 

Như vậy, nhờ cầu nguyện, chúng ta được đi vào giao ước thánh của lòng ta với Thiên Chúa. Có cầu nguyện, ta mới khám phá ra hạnh phúc thật và hạnh phúc giả tạo: “Hãy sống thân tình với Thiên Chúa và xây dựng bình an, anh sẽ tìm lại được hạnh phúc” (G 22, 21).

3. Sống thân tình với Thiên Chúa

Khi chọn đời sống tu trì để hiến dâng cho Thiên Chúa và con người, thì đời tu của mỗi chúng ta là một cuộc giao ước thánh. Thông qua giao ước này, ta chọn Chúa làm Chủ đời ta, ta thuộc về Ngài, và Ngài thuộc về ta. Cuộc giao ước này là một cuộc giao ước tình yêu. Lời mời gọi của Đức Giêsu “hãy theo Thầy” và ta đáp trả, ấy là một cuộc tình được thiết lập, mà Đức Giêsu là người chủ động đi bước trước. 

Đây là một lời mời gọi mang đầy tình mến mà Đức Giêsu dành cho những ai Ngài chọn. Khi chúng ta đáp lại lời mời gọi đó, là chính lúc ta được trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Thánh Phaolô đã nói thật thâm sâu: “ Tôi coi tất cả mọi sự là thiệt thòi, so với mối lợi tuyệt vời, là được biết Ðức Kitô Giêsu, Chúa của tôi …” (Pl 3, 8).

Tông Huấn về đời sống thánh hiến khẳng định: “Khởi điểm của chương trình này là sự kiện phải rời bỏ tất cả để theo Đức Kitô” (ĐSTH số 93) và sống gắn bó với Ngài.

Sự gắn bó với Đức Kitô được hiểu như là sự sống còn. Chính Ngài cũng đã diễn tả tâm tình này khi đưa ra hai dụ ngôn người tá điền và anh lái buôn: “Nước Trời giống như chuyện kho báu chôn giấu trong ruộng. Có người kia gặp được thì liền chôn giấu lại rồi vui mừng đi bán tất cả những gì mình có mà mua thửa ruộng ấy. Nước Trời lại cũng giống như chuyện một thương gia đi tìm ngọc đẹp. Tìm được một viên ngọc quý, ông ta ra đi, bán tất cả những gì mình có mà mua viên ngọc ấy” (Mt 13,44 – 46). 

Niềm vui và hạnh phúc của người môn đệ chính là xác tín thật chắc chắn về vị Thầy mà mình quyết định đi theo để được ở cùng và sống với Ngài. Vị Thầy đó chính là kho tàng, là viên ngọc quý. Nói cách khác, Ngài là lẽ sống, là lý tưởng, là thần tượng của chúng ta. Vì thế, không có gì tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Kitô (x. Rm 8, 38). “Khi được Ngài, tôi đành mất hết, và tôi coi tất cả như đồ bỏ, để được Đức Kitô” (x. Pl 3,7-8). Trong Tin Mừng, chúng ta cũng thấy có câu chuyện chàng thanh niên giàu có được Đức Giêsu đem lòng yêu mến, quý trọng và mời gọi anh ta bước đi theo Ngài để được hạnh phúc: “ Anh chỉ thiếu có một điều, là hãy đi bán những gì anh có mà cho người nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo tôi". (22) Anh ta sa sầm nét mặt vì lời đó, và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải” (Mc 10,21-22). Tuy nhiên, anh đã không đáp lại lời mời gọi ấy và đã buồn rầu bỏ đi chỉ vì anh ta có nhiều của cải. Chúa của anh là đồng tiền. Chính đồng tiền đã chiếm địa vị độc tôn nơi anh ta. 

Trong thực tế, giới nhà tu của chúng ta cũng vậy. Có rất nhiều người muốn theo Chúa, hiến thân để sống đời phục vụ... Nhưng oái oăm thay, họ lại không chịu những điều kiện đi đôi với ước muốn đó. Họ muốn cả hai và luôn trong tình trạng sẵn sàng “bắt cá hai tay”; hay “tu sĩ hàng hai”. Họ ngại khó, ngại hy sinh, và khó từ bỏ. Hoặc thay vì đi theo và chọn Chúa, thì lại chỉ lo làm việc của Chúa! Đến khi không có việc của Chúa hay không ưng ý với công việc được trao thì sinh ra buồn phiền, chán nản và bỏ đi như chàng thanh niên giàu có kia.

Chính vì thế, chúng ta không lạ gì khi thấy rất nhiều người tỏ vẻ bên ngoài thành công, mũ mão cân đai, họ nói cười oang oang, họ vỗ ngực xưng tên, họ được nhiều người trọng dụng... Nhưng thực chất, khi đối diện với lương tâm, họ là những người bi đát, thất vọng vì không có nguồn hạnh phúc thật là chính Chúa, mà chỉ có những thứ hạnh phúc rẻ tiền mà thôi. 

Vậy muốn có một cuộc đời hạnh phúc thật, thì trước tiên, người sống đời thánh hiến phải yêu mến và siêng năng đời sống cầu nguyện.

4. Đời sống cầu nguyện nơi người thánh hiến

Nói đến nghề đi buôn, người ta nghĩ ngay đến chuyện buôn gì, có lời hay lỗ. Cũng vậy, khi nói đến đời tu, người ta nghĩ ngay đến đời sống cầu nguyện. Cầu nguyện được ví như hơi thở: " Anh em hãy canh thức và cầu nguyện, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái,nhưng thể xác lại yếu đuối" (Mt 26,41). Nếu không cầu nguyện, chúng ta còn có nguy cơ bị cám dỗ và xa dần Thiên Chúa nữa. 

Cầu nguyện đối với người sống đời thánh hiến được khởi đi từ lúc bình minh đến khi chiều tà. Từ khi mặt trời ló rạng đến khi khuất núi ban chiều. Mẹ Têrêsa Calcutta đã cầu nguyện liên lỉ. Cầu nguyện trong mọi cảnh huống thường ngày. Tuy nhiên, mẹ không phải lúc nào cũng ở trong nhà thờ để cầu nguyện. Với mẹ, mọi nơi mọi lúc đều có thể cầu nguyện được. Chính vì thế, hễ những ai gặp được mẹ, từ người quyền cao chức trọng, đến thường dân. Từ người giàu đến người sống trong khu ổ chuột... ai ai cũng cảm thấy hạnh phúc và vui mừng khi gặp mẹ. Mẹ không có tiền bạc, không phải là một phụ nữ hấp dẫn, trẻ trung, không phải là người có địa vị trong xã hội... Nhưng mẹ hấp dẫn là vì mẹ có tình yêu. Tình yêu của mẹ là tình yêu hướng tha, được khởi đi từ sự cầu nguyện. Chính trong đời sống cầu nguyện mà mẹ cảm nghiệm thật hạnh phúc, đồng thời mẹ trao ban niềm vui và hạnh phúc đó cho mọi người. 

Trong đời tu, nhiều khi chúng ta không cảm thấy hạnh phúc ngay trong những chiến thắng bề ngoài. Tại sao vậy? Thưa chỉ đơn giản là không có cầu nguyện. Hay lời cầu nguyện của chúng ta bị đóng khung ở bên trong nhà thờ; bị khóa chặt trong cuốn sách kinh mà không hề ăn nhập gì với cuộc sống cả. Những người như thế, họ như là “xác không hồn” và không sớm thì muộn, đời tu của họ sẽ sụp đổ tan tành ngay bởi sự nhàm chán trong công việc phụng vụ, phục vụ và nỗi cô đơn trong đời tu. 

Đức Hồng Y Fx. Nguyễn Văn Thuận trong tác phẩm Đường Hy Vọng có nói: “Thứ nhất cầu nguyện, thứ hai hy sinh, thứ ba mới đến hoạt động” (ĐHV 119). 

Khi không có đời sống cầu nguyện trong cuộc đời của người tận hiến, chúng ta làm mọi chuyện chỉ là việc cưỡng ép, mà nếu làm như vậy, thì có lẽ máy móc tân tiến ngày nay làm hơn chúng ta nhiều. 

Nếu chúng ta không có đời sống cầu nguyện, thì chúng ta mất đi nguồn sự sống, nguồn bình an, và như thế, chính bản thân ta đâu có đủ tư cách nói rằng tôi làm việc này hay việc khác vì Chúa đâu! “Cầu nguyện là nền tảng của đời sống thiêng liêng. Lúc cầu nguyện con nối liền, kết hợp với Thiên Chúa. Bóng điện sáng nhờ nối liền với máy phát điện (ĐHV 120). Những người không có đời sống cầu nguyện, thì dù họ có làm được phép lạ cũng đừng tin. Cuộc đời của họ sẽ sụp đổ nhanh chóng vì họ xây nhà trên cát (x. Lc 6, 49).

Có rất nhiều anh chị em chúng ta nói: tôi cầu nguyện rất nhiều, tôi dành cho Chúa rất nhiều thời giờ, nhưng sống với anh chị em trong cộng đoàn thì chẳng ra gì cả. Người đời thường nói: “Khoảng cách xa nhất trong cuộc sống chính là từ miệng đến bàn tay”.

Như vậy, cầu nguyện phải là một trạng thái thanh thoát và bình an. Cầu nguyện không phải là chuyện làm cho xong để rồi giờ cầu nguyện được ví như giờ lên lớp hay trả bài. Không phải thế, cầu nguyện là lòng với lòng, ta với Chúa trong tình Cha - con. Vì thế, đừng lý luận cao siêu, đừng bóp trán nặn óc để thưa lên với Chúa những lời sáo rỗng từ chương, nhưng thực chất chẳng có gì. 

Mặt khác, cầu nguyện còn giúp cho mỗi chúng ta trở về với lòng mình cách chân thực để biết mình và biết Chúa. Nhận ra con người yếu đuối của mình, và nhận ra Thiên Chúa là đáng tuyệt mỹ. Khi nhận ra mình như thế thì điều đầu tiên cần có là tâm hồn sám hối và sung sướng vì được Chúa thương yêu. Khi họ cầu nguyện, họ được vì như: “Người khôn xây nhà trên đá. Dù mưa sa, nước cuốn, hay bảo táp ập vào, nhà ấy cũng không sụp đổ, vì đã xây trên nền đá ” (Mt 7, 24-25). 

Những người sống đời cầu nguyện thâm sâu, thì họ sẽ suy nghĩ, nhìn, nói, hành động theo ý muốn và hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Khi kết hiệp với Chúa, họ không ngừng sám hối và cũng không ngớt được thúc đẩy mở rộng lòng bao dung, tình thương đến với người khác. Pierre Van Brieman đã nói: “Cầu nguyện là mở tâm hồn, mở trái tim và đôi bàn tay trước mặt Thiên Chúa. Tôi còn bám víu vào nhiều thứ trong đời sống của tôi và quyết nắm chặt lấy chúng trong tay: của cải vật chất, tinh thần, công việc, địa vị của tôi, bạn bè, nguyên tắc của tôi… Nếu tôi mở tay ra, những ‘của cải’ trên vẫn còn đó, có lẽ không một vật nào rơi bớt đi, nhưng ít nhất đôi bàn tay tôi đã mở. Thái độ đó là thái độ của người cầu nguyện”.

Người sống đời tận hiến chỉ hạnh phúc khi gắn bó với Nguồn cội, với Đấng đã, đang và sẽ ban cho mình tất cả. 

Nói cho cùng, chúng ta hạnh phúc vì đã mở ra, mở ra với Thiên Chúa và mở ra với tha nhân.

Như một lời kết luận, xin mượn câu chuyện của mẹ Têrêsa Calcutta với một ký giả, khi ông này có buổi tiếp xúc với mẹ. 

Câu chuyện được bắt đầu với lời hỏi của anh ta:

Sáng nay mẹ làm gì?

Cầu nguyện. 

Bắt đầu từ mấy giờ?

4 giờ rưỡi.

Và sau khi cầu nguyện?

- Chúng tôi tôi tiếp tục cố gắng cầu nguyện qua công việc bằng cách làm những công việc đó với Chúa Giêsu, vì Chúa Giêsu và cho Chúa Giêsu. Điều này giúp chúng tôi đặt cả trái tim và tâm hồn mình vào công việc đang làm. Những người đang hấp hối, những người đang co quắp, những người bệnh tâm thần, những người bị bỏ rơi, những người không được yêu thương. Họ là Chúa Giêsu cải trang....

Qua câu chuyện trên, chúng ta thấy đời sống cầu nguyện của chúng ta rất quan trọng. Khi cầu nguyện, chúng ta tin nhận Thiên Chúa là chủ đời ta cũng như vận mệnh của đời ta. Chúng ta sẽ làm mọi chuyện vì quy Kitô. Lấy Chúa Kitô làm trung tâm của ơn gọi và sứ vụ. Lúc đó chúng ta sẽ hạnh phúc vì có Chúa ở cùng chứ không bị lệ thuộc vào những công việc của Chúa hay những thứ bề ngoài.

Jos.Vinc. Ngọc Biển2/15/2014
http://www.vietcatholic.org/News/Html/121620.htm