Trên tờ Records của giáo phận Perth, Australia, có đăng lời tâm sự của
một cựu linh mục, một nhà thần học sau gần 20 năm trong thiên chức linh mục,
nay đã hoàn tục. Bài tâm sự này là một lời cảnh báo cho tất cả chúng ta không
nuôi dưỡng đời sống cầu nguyện hằng ngày.
“Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô. Tôi
xác quyết rằng dù sống hay dù chết, dù tù đày, bắt bớ, dù khốn cùng, quẫn bách.
Không có gì tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa, trong Đức Kitô”.
Tôi đã nhiều lần gân cổ, mặt đanh lại khi hát những câu hát trên. Cứ tưởng như
là chỉ cần gào to lên như vậy thì tôi sẽ đời đời sống trong lòng mến của Thiên
Chúa. Thật ra, cũng không hoàn toàn là vô lý. Thật sự, đúng là tù đày, bắt bớ,
khốn cùng, quẫn bách đã không tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa. Nhưng,
đơn giản là vì những thứ ấy không xảy ra trên đất nước tự do này. Ai dám bỏ tù
tôi, ai dám kỳ thị tôi, ngược đãi tôi vì tôi là người Công giáo, tôi kiện lên
họ tới Tối Cao Pháp Viện chứ chơi à.
Tuy nhiên, đã có một thứ nhẹ nhàng hơn, êm ái hơn đã không chỉ tách tôi mà thực
sự là “bứng” tôi hoàn toàn khỏi lòng mến của Thiên Chúa: một đời sống bận rộn
và thiếu sự cầu nguyện.
Năm 1972, sau khi tốt nghiệp tiến sĩ thần học ở Rôma, tôi đã nổi như cồn với
tác phẩm đầu tay “Tiếng thở dài”. Cuốn sách trình bày những suy tư thần học về
ý nghĩa của sự đau khổ trong kiếp nhân sinh này, đã được bề trên, các linh mục
và anh chị em giáo dân đón nhận nhiệt liệt. Có những người viết thư cho tôi cho
biết họ tìm lại được đức tin sau khi đọc cuốn sách đó. Họ tìm lại được lòng
trông cậy vào Chúa và khen nức nở các ý kiến của tôi. Mỗi khi có chuyện không
như ý, theo lời khuyên trong cuốn sách, họ cầu nguyện với Chúa: “Lạy Chúa, con
biết Chúa hằng yêu thương con. Con phó thác mọi sự trong tay Chúa. Nhưng, lạy
Chúa, qua chuyện không vui này, Chúa muốn nói với con điều gì ? ”.
Khốn nạn thân tôi, trong khi khuyên người ta cầu nguyện, tôi càng ngày càng ít
dành thời gian cho việc cầu nguyện. Tôi miệt mài trong các thư viện, cố viết
hay hơn nữa, nhiều hơn nữa. Tôi tưởng tôi đã gặp được Chúa trong những suy tư
thần học, cho nên tôi xao lãng đời sống cầu nguyện, tôi đã không thực hành
chính những điều tôi nói và viết hằng ngày trên bục giảng và trong các tác phẩm
của tôi. Có lẽ, tôi đã cho rằng cầu nguyện chỉ là hình thức cấp thấp dành cho
những người bình dân. Siêu đẳng như tôi thì không cần. Càng ngày tôi cũng càng
ít có giờ cho giáo dân và càng ngày tôi càng bướng bỉnh và kiêu căng với các
đấng bề trên. Chuyện gì đến cũng đã đến. Tôi không muốn sa vào những phân tích
vụn vặt. Điều tôi muốn nói với các bạn sau nhiều năm suy tư, sau những đêm dài
không ngủ và trong sự hối tiếc chân thành của tôi là sự thật đơn giản này:
Những hiểu biết sâu hơn về Thiên Chúa, nhiều hơn về Thiên Chúa không giúp giữ
tôi trong lòng mến của Ngài. Chính đời sống cầu nguyện đơn sơ mà mẹ tôi tập cho
tôi từ ngày còn bé mới giữ tôi lại trong tình yêu thương của Thiên Chúa.
Chẳng vậy, mà trong Phúc âm biết bao nhiêu lần chúng ta gặp câu này: “Sau đó,
Người lui vào một nơi thanh vắng mà cầu nguyện”. Chính Chúa Con mỗi ngày còn
cần đến sự cầu nguyện ở nơi thanh vắng để hiểu được ý Chúa Cha. Chúng ta là ai,
tư cách gì, mà đòi có thể biết được ý Chúa qua trí khôn, qua sự xét đoán nông cạn
của mình trong cái náo nhiệt, bận rộn của cuộc sống quay cuồng chung quanh.
Chẳng vậy, tất cả các lần Đức Mẹ hiện ra, Mẹ đã không nói gì nhiều hơn là lặp
lại tiếng kêu gọi khẩn cấp hãy cầu nguyện đó sao. Chúng ta cũng nhìn thấy điều
này nơi các Thánh mà chúng ta hằng tôn kính. Chính sự cầu nguyện đã giúp các
Ngài nên Thánh.
Tôi đặc biệt mong muốn lặp lại ở đây những điều Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2 đã
viết trong cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” :
Việc cầu nguyện vừa là tìm tòi Thiên Chúa, vừa là mặc khải Thiên Chúa. Nơi việc
cầu nguyện của ta, Thiên Chúa tỏ rõ Ngài là Đấng Sáng Tạo và là Cha, là Đấng
Cứu Chuộc và là Chúa Cứu Thế, là Thần Khí “dò thấu mọi sự, cả đến những gì sâu
xa nhất của Thiên Chúa” (1 Cr 2, 10), cũng như dò thấu những gì bí mật của tâm
hồn. Trong việc cầu nguyện, trước hết, Thiên Chúa tỏ ra Ngài là tình thương
xót, nghĩa là một Tình yêu đi tới gặp con người đau khổ. Tình yêu này nâng đỡ,
vực dậy và mời gọi chúng ta hãy tin tưởng”.
Trên tất cả mọi sự, tôi nhận rõ rằng chính việc thiếu một đời sống cầu nguyện
đã giết chết ơn gọi Linh mục trong tôi.
Lời bàn: Những lời cảnh báo này thật đáng suy nghĩ. Bao nhiêu lần
tôi đi dự lễ ngày Chúa Nhật mà chỉ mong cha làm cho nhanh nhanh để tôi về còn
lo làm chuyện khác. Tôi có chuyện gì đáng lo hơn là phần rỗi linh hồn của tôi.
Tôi có một công việc rồi, còn muốn kiếm thêm một công việc nữa đến nỗi không
còn có giờ cầu nguyện nữa. Sống như điên, cày như điên như thế có phải là cuộc
sống được chúc phúc không.
Đặng Tự Do 11/1/2012
nguon: http://vietcatholic.org/News/Html/100870.htm