Nhìn lại 100 ngày đầu của Đức Phanxicô

Một trăm ngày đầu của các vị thủ tướng hay tổng thống thường được người ta chú ý. Đối với một định chế lâu đời như Vatican, hình như 100 ngày không phải là một thước đo bất cứ phương diện nào trong sinh hoạt của nó. Bởi thế, 100 ngày đầu của Đức Phanxicô lặng lẽ qua đi, ít được ai nhắc đến. Tuy thế, nó vẫn được hai nhà bỉnh bút Hoa Kỳ xem xét.
Cha xứ của thế giới 
John L. Allen Jr của NCR ngày 17 tháng 6 vừa qua gọi 100 ngày đầu của Đức Phanxicô là 100 ngày đầu của một cha xứ giáo xứ thế giới. Theo nhà bỉnh bút này, các tâm lý gia cho rằng khi kinh nghiệm đi ngược lại mô thức của ta về thế giới, nó sẽ phát sinh ra hiện tượng rối loạn về nhận thức (cognitive dissonance). Lúc ấy, một là ta phải mài dũa lại sự kiện để nó phù hợp với mô thức hai là ta phải từ bỏ mô thức của ta đi, để khỏi phải sống trong cảnh mù mờ triền miên. Ông cho rằng ngã ba đường đó đang là ngã ba đường của thế giới Công Giáo sau 100 ngày đầu của triều giáo hoàng Phanxicô. 

Cứ chiếu theo lệ thường, thì mặt tiền Vatican hiện hết sức êm lặng. Cho đến nay, Đức Phanxicô mới chỉ công bố một động thái mạnh bạo về chính sách, đó là việc cử nhiệm, vào tháng Tư, tám vị Hồng Y khắp thế giới làm “nội các nấu nướng” cho ngài. Tuy nhiên, phiên họp đầu tiên của “nội các” này đến mãi tháng Mười mới diễn ra. Nếu kể cả công bố vào ngày 24 tháng 6 về việc thành lập Ủy Ban Tham Chiếu Giáo Hoàng Về Viện Các Công Trình Tôn Giáo mà người ta thường gọi là Ngân Hàng Vatican nữa, thì cũng chỉ là động thái thứ hai.

Ngoài ra, cho tới nay, Đức Phanxicô đã cử nhiệm 48 tân giám mục và một số các viên chức hạng nhì của Vatican, nhưng phần đông là do những sắp xếp trước khi ngài lên ngôi giáo hoàng. Ngài cũng đã chấp thuận một số án phong thánh, thiết lập một số giáo phận mới, gặp gỡ một số quốc trưởng, nhưng không có gì ngoại thường. Ngài chưa công bố bất cứ văn kiện quan trọng nào về giáo huấn, và trừ Ủy Ban Tham Chiếu mới nhằm cải tổ, nếu cần, Ngân Hàng Vatican ra, chưa có quyết định nào về hướng cải tổ Giáo Triều, một điều được thiên hạ đồn thổi lâu nay. 

Và cũng vì chưa có hành động nào “ngoạn mục” nên cũng chưa có gì tranh cãi lớn. Vào lúc này, Đức Phanxicô đang chuẩn bị cho chuyến đi Rio de Janeiro để chủ tọa Ngày Giới Trẻ Thế Giới. Sau đó, Vatican bước vào cảnh lặng gió của mùa hè. Thành thử phải đến tháng Chín, họa may mới có động thái ngoạn mục như việc bổ nhiệm tân quốc vụ khanh chẳng hạn. 

Allen bảo rằng, đối với thói thường, cho đến nay xem ra chỉ mới có sèo sèo chứ chưa có thịt nướng thực sự. Ấy thế nhưng xét cho tường tận, một cái gì đầy chấn động đang sắp sửa diễn ra. Đức Phanxicô đang lôi cuốn một quần chúng đông đảo khiến cảnh sát phải cấm xe cộ tại khu vực quanh Công Trường Nhà Thờ Thánh Phêrô như trong các lễ phong thánh cho Mẹ Têrêxa hay cho Padre Pio. Các người bán buôn khắp Rôma đang tường trình những thu nhập lớn lao nhờ các món hàng kỷ niệm về Đức Phanxicô. 

Khắp thế giới, có những tường trình đã thành dã sử về việc gia tăng số người tham dự Thánh Lễ và chạy tới tòa giải tội. Một thứ “hiệu quả Phanxicô” trông thấy. Các cuộc thăm dò, như cuộc thăm dò hồi giữa tháng Tư của Diễn Đàn Pew, cho thấy con số áp đảo những lời khen ngợi ngài và truyền thông hoàn cầu vẫn còn rất say mê vượt quá cả thời hạn trăng mật thông thường. Tất cả những định mức ấy cho thấy biến cố Janeiro vào tháng Bẩy này sẽ là một biến cố nổ bùng nhất xưa nay của “tiệc vui Công Giáo” trong thế kỷ 21. 

Nói cách khác, với Allen, ngành Vatican học và tiếng dân (vox populi) hình như không đi đôi với nhau. Chìa khóa để giải quyết hiện tượng không đi đôi này có lẽ là đây: Đức Phanxicô xem ra cương quyết hành xử như một mục tử khiến cho mô thức đúng không phải là mô thức người ta quen dùng để đánh giá một nhà hành pháp cầm đầu. Đúng hơn, đó là cách người Công Giáo quen dùng để nghĩ về một cha xứ. Câu hỏi chính vì thế không phải là chính sách của ngài ra sao, mà liệu ngài có gợi hứng hay không. 

Phong cách và bản chất

Allen cũng cho rằng 100 ngày đầu của Đức Phanxicô cho ta thấy rõ, khi đụng tới việc lãnh đạo thiêng liêng, phong cách đôi khi là chính bản chất thực sự. Đức Cha Jorge Eduardo Lozano của Gualeguaychú, Argentina, cho rằng quả là lầm lẫn khi người ta trông mong một giáo hoàng thực sự sẽ xuất hiện từ bên dưới những biểu hiệu lúc ban đầu của triều đại ngài. Thực ra, những biểu hiệu ấy chính là vị giáo hoàng thực sự rồi. Đức Cha Lozano vốn là bạn của Đức HY Jorge Mario Bergoglio, vì Đức HY là giám mục phụ tá của ngài tại Buenos Aires trong 6 năm. 

Hồi giữa tháng Tư vừa qua, Đức Cha Loranzo cho hay: các biểu hiệu đó “nói lên huấn quyền của ngài”. Huấn quyền ấy là “Hãy vươn tới người khác, đừng đợi họ tới với mình”. Đối với Allen, sứ điệp này được biểu hiện qua bốn đặc điểm trong phong cách lãnh đạo của Đức Phanxicô: tính đơn giản, lòng khiêm nhường, đứng ngoài chính trị và rất dễ lui tới với người dân thường. 

Tính đơn giản

Trước khi được bầu làm giáo hoàng, một trong những điều ít ỏi người ta biết về Đức HY Bergoglio là ngài thường dùng xe điện để đi làm chứ không dùng xe hơi có tài xế, sống trong một căn hộ chứ không sống trong tòa giám mục lộng lẫy. Khi lên ngôi giáo hoàng, ngài vẫn duy trì lối sống đơn giản ấy: cuốc bộ trong Vatican, không dùng xe có bảng số đặc biệt SCV-1, sống tại Domus Sanctae Marthae chứ không tại Tông Điện. 

Sự đơn giản ấy thường đi đôi với việc đặc biệt quan tâm tới cảnh nghèo và người nghèo. Ngày 16 tháng 3, ngài nói với một nhà báo tới Rôma theo dõi cơ mật viện bầu giáo hoàng rằng Giáo Hội phải là “Giáo Hội nghèo cho người nghèo”. Ngài biến tinh thần liên đới với người nghèo này thành chính sách. Ngày 16 tháng Năm tại buổi trình ủy nhiệm thư của 4 đại sứ bên cạnh Tòa Thánh, ngài cảnh cáo rằng “trong khi thu nhập của một thiểu số người gia tăng theo cấp số nhân, thì thu nhập của đại đa số đang tuột dốc. Sự mất cân bằng này phát sinh từ các ý thức hệ cổ vũ tính tự lập tuyệt đối của thị trường và đầu cơ tài chánh, và do đó bác bỏ quyền kiểm soát của nhà nước, là định chế có nhiệm vụ chăm lo công ích” 

Một tuần lễ sau, nhân viếng một nhà bếp cung cấp cháo cho người nghèo do Dòng Truyền Giáo Bác Ái điều hành, ngài kết án “chủ nghĩa tư bản tàn ác chuyên giảng dạy thứ luận lý học lợi lộc bất chấp điều gì… chuyên khai thác không hề nghĩ tới những con người”. 

Tính đơn giản cũng biểu lộ qua việc Đức Phanxicô thích dùng cử chỉ thay vì những tuyên bố cầu kỳ. Thay vì thuyết giảng về chức linh mục trong phụng vụ Thứ Năm Tuần Thánh, ngài đi rửa chân cho các tù nhân trẻ tại Casa del Marmo, trong đó có cả phụ nữ và người Hồi Giáo. 

Việc bao gồm cả phụ nữ vào nghi thức rửa chân xem ra đi ngược với chỉ thị năm 1988 của Bộ Phụng Tự. Nhưng theo cha Lombardi, phát ngôn viên Tòa Thánh, việc đó được tính đơn giản biện minh: “cộng đoàn này (Casa del Marmo) chỉ hiểu những điều đơn giản và chủ yếu; họ không phải là các học giả phụng vụ. Rửa chân là điều quan trọng ở chỗ cho thấy tinh thần phục vụ và yêu thương của Chúa Kitô”. 

Lòng khiêm nhường 

Nếu được thăm dò về các nhân đức của Dòng Tên, phần lớn người Công Giáo sẽ nhắc đến rất nhiều đức tính như thông thái, nhiệt thành, khả năng suy nghĩ rộng rãi, không chật hẹp, hăng say trong cánh đồng truyền giáo… Ít ai nghĩ tới lòng khiêm nhường của họ, vì họ vốn tự hào về các tài năng của mình. 

Oái oăm thay, Đức Phanxicô lại là vị giáo hoàng Dòng Tên đầu tiên nhấn mạnh tới lòng khiêm nhường như đức tính xác định ra tư cách lãnh đạo trong Giáo Hội. Hôm ra mắt công chúng sau khi được bầu làm giáo hoàng, ngài yêu cầu công chúng cầu xin ơn lành của Chúa xuống trên ngài trước khi ngài ban phép lành cho họ. Điều này được giải thích như là lời yêu cầu họ chúc lành cho ngài trước, một cử chỉ đầy ý nghĩa cho tương lai. 

Quả tình sau đó, Đức Phanxicô đã chối từ rất nhiều cách thức thông thường vốn tách biệt các vị giáo honàg ra khỏi quần chúng. Ngài tự gọi điện thoại cho ông chủ sạp báo ở Buenos Aires để hủy bỏ đơn mua báo, điện thoại cho người đóng giầy để đặt đôi giầy mới, bắt đầu điện đàm bằng cách tự giới thiệu “Jorge đây!”. Ngài không cử nhiệm thư ký riêng, những người hành xử như người canh cửa và thông dịch viên, nhưng không thiếu những vị hành xử như các “phó giáo hoàng”.

Một phần, các việc trên phản ảnh phong cách quản trị trực tiếp của ngài. Nhưng rõ ràng chúng cũng nói lên lòng khiêm nhường, muốn tự làm lấy những việc mà ngài thông thường vẫn làm. Khi tiếp ai đó tại Vatican, ngài có thói quen không ngồi trên ngai, đợi họ đến, mà rời khỏi bục, gặp khách ngang tầm mắt và chào đón họ như người ngang hàng. 

Lòng khiêm nhường cũng trở thành nét xác định ra triều giáo hoàng trên bình diện thần học và Giáo Hội học. Thí dụ, nhiều quan sát viên cho rằng việc ngài quyết định thành lập nhóm 8 vị Hồng Y giúp ngài quản trị cho thấy quyết tâm của ngài muốn có một phương cách thi hành thẩm quyền một cách có tính hợp đoàn và hợp tác hơn. 

Không hẳn ai ai cũng đồng ý phương thức ấy. Người chuyên viết về phụng vụ người Ý là Mattia Rossi từng cho rằng đó là bước tiến nhằm “tiêu hủy ngôi vị giáo hoàng” vì nó thay thế ý niệm thẩm quyền do Chúa thiết lập bằng ý niệm hợp đoàn tính đầy mờ nhạt, và do đó, đã biến vị giáo hoàng từ người thứ nhất trên các người cùng hàng thành người thứ nhất giữa những người cùng hàng. 

Đó có lẽ chính là ý hướng của Đức Phanxicô khi ngài ít xưng mình là giáo hoàng, nhưng là “giám mục Rôma”, vừa tránh âm hưởng vua chúa, vừa đi sâu đi sát nguồn gốc lịch sử hơn. Nhiều chuyên viên đại kết tin rằng lòng khiêm nhường của Đức Phanxicô sẽ dọn đường tạo tiến bộ cho việc hợp nhất Kitô Giáo, vì điều mà họ cho là sự ngạo mạn của giáo hoàng vốn là viên đá chặn đường đại kết. 

Linh mục Dòng Capuchin William Henn, một nhà đại kết học nổi danh hiện giảng dạy tại Đại Học Gregorian ở Rôma, nhận định rằng “với Đức Phanxicô, tôi nghĩ các Kitô hữu khác sẽ thấy rõ hơn việc thừa tác vụ giám mục là để phục vụ hiệp thông, và sẽ cởi mở hơn đối với nó”. 

Đứng ngoài chính trị 

Dù cố gắng bao nhiêu, các nhà lãnh đạo tôn giáo cũng khó có thể đứng trên chính trị. Nhất là các vị giáo hoàng, vì Giáo Hội Công Giáo vốn có một giáo huấn xã hội hết sức bao quát với nhiều hậu quả chính trị. Chính Đức Phanxicô cũng đã nói nhiều điều liên quan tới chính trị. Ngoài các nhận định về kinh tế ra, ngài còn nói về việc bảo vệ môi sinh, gọi chiến tranh là “cuộc tự sát của nhân loại”… 

Hiện không có dấu chỉ nào cho thấy Đức Phanxicô sẽ dẫn Giáo Hội ra khỏi các quan tâm truyền thống về chính trị. Ấy thế nhưng, các quan sát viên đều tin rằng đây không phải là vị giáo hoàng hễ tỉnh ngủ là nghĩ tới chính trị. Sau cuộc bỏ phiếu ngày 10 tháng Tư vừa qua tại Uruguay nhằm hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính, không một nhận định nào của Đức Phanxicô hay của các phụ tá cao cấp đã được nói ra, dù Uruguay là nước thứ ba của Châu Mỹ La Tinh nhìn nhận loại “hôn nhân” này, một sự kiện mà các quan sát viên tin rằng sẽ thúc đẩy các quốc gia khác trong vùng mô phỏng, vùng vốn là quê hương của ngài. 

Điển hình hơn là tại Ý, nơi người ta vẫn nghĩ về các giám mục như những người nặng ký về chính trị. Nhưng trong diễn văn với Hội Đồng Giám Mục của nước này vào ngày 23 tháng Năm, ngài không nói một chữ về chính trị hay bất cứ việc gì liên quan tới quốc hội Ý. 

Thái độ trên làm cho Đức TGM Luigi Negri của giáo phận Ferrara-Comacchio, một ủng hộ viên tích cực của Phong Trào Hiệp Thông và Giải Phóng, một phong trào được coi như có truyền thống hoạt động mạnh nhất trong chính trường Ý, phải nói rằng “tôi không tin ta cần phải tự chế trong việc lên tiếng khi các giá trị của ta bị đe dọa” tuy nhiên, vì phong thái mới của Đức Phanxicô, “có lẽ chúng ta cần thay đổi phương thức hành động của ta”. Theo ngài, điều ấy có nghĩa các giám mục nên đứng ngoài để các giáo dân hành động. “Sự tự lập của giáo dân cần được kính trọng”. 

Dễ dàng lui tới 

Trong các ngày đầu triều đại của Đức Phanxicô, người ta thường nói đùa với nhau rằng những người duy nhất ở Rôma không bị vị tân giáo hoàng “mê hoặc” là các nhân viên an ninh, những người khốn khổ lắm mới bảo vệ được ngài. Một nhân viên an ninh nói với tờ La Stampa ngày 18 tháng Ba: “chúng tôi hy vọng sau những ngày đầu tiên này, mọi sự sẽ trở thành bình thường. Nếu không, ngài sắp làm mọi người điên lên được!”

Ông ta nói thế nhân dịp Đức Phanxicô tới cử hành Thánh Lễ tại nhà thờ Thánh Anna vào ngày 17 tháng Ba. Sau Thánh Lễ, ngài ra ngoài nhà thờ gặp dân chúng, bế trẻ em, bắt tay, chuyện trò, cười nói thật thỏai mái với mọi người. Chính hôm đó, báo chí Ý gọi ngài là “cha xứ của thế giới”. 

Ý muốn không tách mình ra khỏi các kinh nghiệm thường ngày là một đặc điểm nổi bật trong các ngày đầu tiên của Đức Phanxicô. Ngài điện thoại nói chuyện với bạn bè và các nguồn khác để biết tình hình của Giáo Hội ngay tại các khu vực của họ. Tính dễ lui tới nơi ngài cũng bao gồm việc sử dụng ngôn từ tự do, không soạn sẵn, khiến nhiều nhà thần học vụ tinh ròng (purist) lo ngại. Họ muốn thà nhiều lời còn hơn chỉ một chút thiếu chính xác. 

Ngài cũng ưa sử dụng các ngôn từ bình dân để chuyên chở chủ điểm của mình. Thí dụ, ngày 10 tháng Năm, ngài so sánh các Kitô hữu ủ rũ như những “trái ớt ngâm dấm”. Ngày 18 tháng Năm, ngài bảo thói bép xép trong Giáo Hội giống như ăn mật ong: bắt đầu thì ngọt ngào nhưng ăn nhiều sẽ đau bụng. 

Các bài giảng hàng ngày của ngài tại Domus Sanctae Marthae không hề là những tiểu luận có hệ thống, nên được nhiều người giải thích rất khác nhau. Người bảo thủ mừng vui khi ngài sử dụng các thuật ngữ truyền thống như việc ngài năng nhắc tới ma quỉ. Nhưng họ không hài lòng bao nhiêu, khi ngài bảo người vô thần cũng được Chúa Kitô cứu chuộc. Người cấp tiến mừng vui khi ngài chỉ trích “những người muốn vặn ngược đồng hồ” đối với các cải cách của Vatican II. 

Dù thế nào, ngài cũng nhất quyết không để cho mối lo bị giải thích sai làm ngài ngưng việc tiếp tục hành xử như một mục tử. Và vì thế, các viên chức Vatican mỗi sáng thức dậy đều tự hỏi không biết hôm nay họ sẽ gặp được ngạc nhiên gì từ vị giáo hoàng ưa ứng khẩu này.

Một cuộc hành trình đầy hấp dẫn

Tiến sĩ John Thavis (www.johnthavis.com) cho rằng 100 ngày đầu của một vị giáo hoàng khác với 100 của các nhà lãnh đạo quốc gia, vì ngài suy nghĩ dài hạn, ít bị áp lực phải đưa ra các chương trình ngắn hạn. Chính vì thế ta chưa thấy một văn kiện, một bổ nhiệm hay một cải cách ngoạn mục nào trong 100 ngày đầu của Đức Phanxicô. 

Tuy nhiên, ta vẫn có được một lượng suy nghĩ và truyền giảng lành mạnh từ vị giáo hoàng đầu tiên thuộc Dòng Tên này về đủ mọi chủ đề, từ chủ nghĩa duy nghề nghiệp của giáo sĩ tới việc làm tay chân nặng nhọc. Vả lại, cũng như Allen, Thavis cho rằng nơi Đức Phanxicô, biểu tượng cũng là bản chất, vì các cử chỉ của ngài nói lên rất nhiều, đối với bên trong cũng như bên ngoài Giáo Hội. Ông nhận diện một số định hướng sau đây:

1. Đức Phanxicô định vị triều đại giáo hoàng bên ngoài Giáo Triều

Thứ nhất, ngài chọn sống tại một nhà khách ít trịnh trọng hơn của Vatican, thay vì tại tông điện. Điều này rõ ràng có ý nghĩa vì địa dư rất quan trọng tại Vatican. Tông điện được bao quanh bởi các bộ sở của Giáo Triều; sống ở đó, ngài thấy mình bị cô lập hơn. Dù sao, ngài cũng là người của quần chúng.

Thứ hai, Đức Phanxicô đã thiết lập nhóm 8 Hồng Y (nay đã tăng lên 9) để góp ý với ngài về các vấn đề quản trị Giáo Hội và cải tổ Giáo Triều, trong đó, chỉ có một thành viên hiện thuộc Giáo Triều. Xem ra, ngài ít dựa vào các chức sắc bên trong Vatican, mà dựa nhiều hơn vào các giám mục thế giới để quản trị Giáo Hội. 

Thứ ba, phần lớn các lời giảng dạy của Đức Phanxicô phát xuất từ các bài giảng lễ hàng ngày tại nhà khách của Vatican trong các bài giảng phần lớn ứng khẩu. Các viên chức Vatican không coi các bài giảng này là huấn quyền, nhưng vẫn cho công bố trọn bản văn. Có thể nói, những bài giảng nhiều ứng khẩu này không đi qua bộ máy bàn giấy thông thường, nên ít bị Giáo Triều kiểm soát.

2. Đức Phanxicô đã khởi sự cuộc “cải tổ” Vatican của ngài rồi bằng cách phúc âm hóa

Người tham dự các Thánh Lễ hàng ngày của Đức Phanxicô đều là các nhóm viên chức và nhân viên của Vatican, nên lời giảng của ngài đặc biệt nhắm vào họ. Theo chiều hướng này, cuộc cải tổ Vatican của Đức Phanxicô thực sự đã bắt đầu rồi. Không theo cách người đời mong đợi, qua việc bổ nhiệm các viên chức đứng đầu các bộ sở, dù việc này thế nào cũng xẩy ra trong những ngày sắp tới. Thay vào đó, Đức Phanxicô đang phúc âm hóa Tòa Thánh. Ngài đặt cơ sở tâm linh cho cuộc cải tổ, bằng cách rao giảng Tin Mừng ngay trong “nhà mình”. 

3. Viễn kiến của Đức Phanxicô ít chú tâm tới căn tính nội bộ mà ngiêng nhiều về ảnh hưởng bên ngoài. 

Ngài muốn Giáo Hội hiện diện trong cuộc sống của người ta. Đối với các linh mục, điều này có nghĩa phải đi gặp gỡ giáo dân, chia sẻ các vấn đề của họ. Đức Phanxicô mô tả điều ấy bằng một hình ảnh bất hủ: mục tử phải có “mùi của chiên”. Đối với các giám mục, điều này có nghĩa phải chấm dứt chủ nghĩa duy nghề nghiệp. Ngài nói với các sứ thần tòa thánh: khi chọn ứng viên giám mục, nên tránh những người có tham vọng, mà chọn các mục tử gần gũi dân. 

Đối với giáo dân, nó có nghĩa cương quyết sống Tin Mừng và công bố nó cách hân hoan bằng lời lẽ và bằng việc làm, nhất là đối với những ai đang đau khổ. Dù cần can đảm mới làm được, nhưng phúc âm hóa không hề là một gánh nặng.

4. Nghị trình công bình xã hội của Đức Phanxicô đang dần dần lên hàng ưu tiên 

Những lời nặng nề thách thức nền kinh tế hoàn cầu hiện nay của ngài “ta đang sống trong một thế giới nơi tiền bạc thống trị… Tiền bạc không phải là hình ảnh và họa ảnh Thiên Chúa” cho thấy thông điệp “Phúc Cho Người Nghèo” mà ngài dự tính ban hành sẽ khó nhá đối với những người bênh vực nền kinh tế vô hạn chế của thị trường tự do. 

Nhưng Tin Mừng kinh tế của ngài không chỉ nhắm các cơ quan quốc tế và các mối lái quyền lực. Ngài muốn Giáo Hội nhập thân mối quan tâm đối với người nghèo và người đau khổ. Ngài cũng cảnh giác các linh mục và giám mục phải chống lại sức cám dỗ của mô thức kinh doanh. “Công bố Tin Mừng phải đi theo đường nghèo khó”. Ngài cho rằng thực hành điều mình rao giảng là chìa khóa để con người thời nay nhìn ra tính khả tín của Giáo Hội. 

Tiến sĩ Thavis nghĩ rằng, ta đã vượt qua thời kỳ “trăng mật” thường tình, để bước vào một cuộc hành trình đầy hấp dẫn.
Vu Van An

Phêrô và Phaolô, hai tên gọi một lý tưởng

26.06.2013
Mừng lễ trọng hai Thánh Tông đồ Phêrô và Phaolô là dịp chúng ta suy ngắm hai khuôn mặt trổi vượt và quan trọng này trong đạo chúng ta.
Tôi thấy trong mỗi vị đều có hai danh xưng khác nhau, đó là Simon - Phêrô; Saolô – Phaolô. Nếu tên gọi Simon và Saolô nói lên con người cũ, con người chưa được biến đổi, thì Phêrô và Phaolô là con người mới, con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô.
Từ Simon đến Phêrô
Trước khi gặp Chúa Giêsu, chưa theo Chúa, Phêrô được gọi là Simon, con Ông Giona, là một ngư phủ lành nghề nhưng quê mùa, chất phác và bộc trực. Ông đã có gia đình, có vợ con đề huề.
Trong Tin Mừng, Phêrô thể hiện rất rõ cá tính của mình: một Simon yếu đuối, nhẹ dạ, nhất thời, bồng bột và dễ thay đổi, phản bội trong những lúc gặp khó khăn thử thách (x. Mt 14,22; 16,23). Nhưng trong ông, cũng có một Phêrô khiêm tốn, chất phác và rất hăng hái, biết sám hối và nhận lỗi của mình (x. (Mt 26,69); một Phêrô mạnh mẽ và vững vàng trong đức tin, lòng mến, cũng như trong sứ vụ: “Lạy Thầy, bỏ Thầy con biết theo ai” (Ga, 6,68); “Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa Hằng Sống” (Mt 16,16).
Sau khi gặp Chúa Giêsu, được Chúa mời gọi, ông đã từ bỏ tất cả để theo Chúa. Chúa đặt cho ông một danh xưng mới: đó là “Phêrô, nghĩa là đá, trên đá này, Thầy sẽ xây hội thánh của Thầy” (Mt 16,18). Với danh xưng này, Phêrô trở thành Tông Đồ của Chúa, và được chọn làm thủ lãnh của nhóm 12. Phêrô đã sống và gắn bó với Chúa Giêsu trong suốt 3 năm trên mọi nẽo đường rao giảng. Sau khi Chúa về trời, Phêrô cùng với các Tông Đồ đi khắp nơi rao giảng Tin Mừng. Phêrô đã đến giảng đạo tại Rôma, rồi bị bắt và bị đóng đinh trên đồi Gianicolo. Theo truyền thống kể lại, khi nghe tin sẽ bị bắt, Phêrô hoãng sợ tìm đường trốn khỏi Rôma để về quê, trên đường đi, ngài đã gặp Chúa Giêsu đang vác thánh giá vào thành Rôma, Phêrô hỏi Chúa: “Quo vadis - Thầy đi đâu?” Chúa Giêsu trả lời: “Thầy vào Thành Rôma để chịu tử nạn lần thứ hai”. Hiểu ra ý Chúa nên Phêrô đã trở lại với đoàn chiên của ngài và chấp nhận án tử hình trên thập giá. Đang khi chịu đóng đinh, Phêrô xin lính Lamã đóng đinh đầu ngược, vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được đóng đinh giống như Chúa Giêsu.
Một điều rất rõ mà chúng ta thấy trong cuộc đời của thánh Phêrô là khi nào ông càng cậy dựa vào sức mình, vào khả năng mình thì ông càng thất bại và tỏ ra yếu đuối. Nhưng khi nào ông càng bám lấy Chúa, tin vào Chúa, Phêrô càng thành công, càng trở nên vững vàng và rất cao cả!
Từ Saolô đến Phaolô
Cũng thế, nơi Thánh Phaolô, có một Saolô trước khi gặp Đấng Phục sinh, Saolô ấy không phải là một chàng trai ăn chơi lêu lổng, nhưng là một người nhiệt thành với truyền thống đạo Do Thái. Là con của một gia đình khá giả, Saolô được học hành chu đáo. Vì lòng trung thành với truyền thống cha ông, Saolô hăng hái đi bắt bớ các kitô hữu đầu tiên vốn thuộc về một tôn giáo mới đang đe dọa sự tồn tại của đạo Dothái.
Cú té ngựa trên đường Đamát đã làm cho Saolô thay đổi hoàn toàn. Saolô gặp Đấng phục Sinh, và được Ngài đặt cho một tên mới đó là Phaolô, vị Tông đồ của Dân ngoại. Sau cuộc trở lại này, Phaolô hăng say rao giảng Đức Kitô. Ông đã sang Hy lạp và La mã nhiều lần để rao giảng Tin Mừng, rồi chịu tử đạo chặt đầu vì Tin Mừng ở ngoài thành Rôma.
Hai tên gọi, một lý tưởng
Hai danh xưng ấy nói lên hai khuôn mặt, hai con người đã được biến đổi bởi Đức Kitô. Hai con người ấy trở thành hai ngôi sao sáng, hai cột trụ chính của Giáo Hội. Cả hai đều có cùng một lý tưởng là Tông Đồ của Đức Kitô. Cả hai đã mang hạt giống Tin mừng sang Châu Âu và đã biến Châu Âu thành một lục địa và là trung tâm của Kitô giáo. Cả hai đã đổ máu đào để làm chứng cho đức tin và tình yêu vào Đức Kitô.
Cũng như Phêrô và Phaolô, những ai gặp Chúa, tìm kiếm Chúa, thì sẽ được Chúa biến đổi. Và những ai được Chúa biến đổi thì một cách tự nhiên, người đó cũng muốn giới thiệu Chúa cho những người khác, muốn là tông đồ của Chúa cho thế giới hôm nay.
Trước những khó khăn và những lối rẽ khác mời mọc, cùng với Phêrô, chúng ta hãy xác tín thêm một lần nữa: “Bỏ Thầy, con biết theo ai” (Mt 16,16). Cùng với Phaolô, chúng ta tuyên xưng rằng: “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi tình yêu của Đức Ki-tô? Phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ, gươm giáo? Nhưng trong mọi thử thách ấy, chúng ta toàn thắng nhờ Đấng đã yêu mến chúng ta” (Rm 8,36-37).


Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Cà phê cao cấp trên hè phố Sài thành

Cà phê vỉa hè từ lâu đã là nét thân thuộc trong đời sống sinh hoạt của người dân Sài Gòn. Khi ý thức về vệ sinh an toàn thực phẩm cộng đồng được nâng cao, nhiều cà phê hè phố cao cấp xuất hiện và thu hút rất đông khách.
Sáng sáng, chiều chiều, tấp vội vào một quán thân quen lề đường để nhấm nháp ly cà phê, thoải mái bình luận các vấn đề thời sự, được ngồi, nghe, nhìn ngắm và cảm nhận cuộc sống ngoài phố đang ào ạt chảy, đã trở thành thói quen của không ít người.
Song cà phê vỉa hè cũng bị cho là kém an toàn vệ sinh thực phẩm, lấn chiếm lòng lề đường khiến kẹt đường, ùn tắc xe cộ. TP HCM đã đưa loại hình kinh doanh này vào diện giải tỏa, nên nhiều "tín đồ" thấy tiếc. Anh Kim Thành, nhân viên bưu chính viễn thông ở quận 1 ngậm ngùi: “Đồng ý rằng việc giải tỏa là cần thiết, nhưng cái thú nhâm nhi cà phê ở các quán cóc đơn giản, cởi mở như thế này đã trở thành một phần cuộc sống phố thị rồi, mất đi thì tiếc lắm”.
Từ thực tế này, vài năm qua Sài Gòn xuất hiện những quán cà phê vỉa hè được đầu tư kỹ lưỡng hơn, có sự kết hợp giữa vẻ đẹp hiện đại và giá trị truyền thống, không gian hiện đại, sang trọng, gần gũi theo hình thức của các quán cóc bình dân.
Đáp ứng nhu cầu của nhiều khách hàng, cạnh những công ty, văn phòng, siêu thị, các tòa cao ốc hiện đại, kiểu quán này là khá phổ biến. Quy mô nhỏ thì khoảng vài bộ bàn ghế như quán The Coffee Bean trước khu phức hợp mua sắm Kumho Asiana Plaza, nhìn ra đường Lê Duẩn, một trong những con đường đẹp nhất TP HCM. Hay vị trí trước tòa nhà Sunwah, nhìn ra đường hoa Nguyễn Huệ thơ mộng, tấp nập du khách. Quy mô lớn hơn thì có cà phê Highlands trước trung tâm thương mại Diamond Plaza, cạnh Nhà thờ Đức Bà thâm nghiêm, cổ kính và công viên 30/4 rợp bóng cây xanh. Hoặc quán trước tòa nhà Metropolitan đường Đồng Khởi, đối diện tượng Đức Mẹ. Trước cao ốc Saigon Trade Center đường Lê Lợi cũng luôn có đến vài chục bộ bàn ghế.
Cách bài trí các địa điểm này khá đơn giản nhưng lịch sự, bàn kính đi cùng nghế ngồi duyên dáng, dưới những chiếc dù xinh xắn.
Tận dụng mái hiên của một tòa nhà lớn, cà phê vẫn là cà phê “vỉa hè” nhưng chất lượng, không gian phục vụ đã được cải thiện rất nhiều. Ảnh: Lê Phương.
Anh Thạch Nai, quản lý của một trong những quán cà phê như thế này cho biết: “Khách hàng chúng tôi hướng đến là người có thu nhập ổn định, thích không khí dung dị, tiện lợi của quán vỉa hè nhưng lại muốn được phục vụ tốt hơn”.
Phong cách phục vụ chuyên nghiệp, cà phê cũng đa dạng hơn nên giá cả cao gấp nhiều lần so với cà phê vỉa hè bình dân. Một số nơi còn có thêm loại cà phê nổi tiếng như cà phê Robusta, Arabica, Cappuccino… và nhiều loại cocktail, sinh tố được pha chế rất ngon.
“Ghiền cà phê vỉa hè từ thời sinh viên, riết rồi thành thói quen luôn. Lâu lâu mà không được vừa cà phê vừa nhìn ngắm phố phường xung quanh là không chịu nổi. Cà phê vỉa hè mà vẫn được đảm bảo đầy đủ các dịch vụ cao cấp như trong nhà hàng thì còn gì bằng”, vừa cảm ơn cô phục vụ xinh xắn trong đồng phục áo đỏ, anh Tâm, một trưởng phòng kinh doanh công ty vừa tươi cười chia sẻ.
Cạnh những vồn vã, hối hả phố thị là sự lắng đọng giản đơn; cạnh những nhà hàng, khách sạn sang trọng là các quán cóc nền nã, bình dị. Sài Gòn không thiếu những nơi giải trí có không gian lịch sự, trang trí sang trọng, lãng mạn; quán cà phê hộp, máy lạnh, cà phê sân vườn quy mô, được chăm chút, đầu tư công phu. Song cà phê nhỏ gọn, khoáng đạt nơi vỉa hè đã hấp dẫn nhiều người Sài thành và cả du khách trong cũng như ngoài nước.
Giới công sở suốt cả ngày nhốt mình trong văn phòng máy lạnh với bao áp lực, những phút giây thả mình giữa nhịp sống nhộn nhịp nhiều sắc màu đời thường, đón gió trời dịu nhẹ ở cà phê vỉa hè chất lượng cao cũng là một điều rất thú vị.


Lê Phương (Theo http://VnEpress.net)

Ngày bi thảm cho Hôn Nhân ở Hoa Kỳ

Trần Mạnh Trác6/26/2013

Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ngày 26 tháng 6 đã phán quyết với tỷ lệ 5-4 một phần quan trọng của Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân (DOMA: Defense of Marriage Act) là vi hiến, chính phủ liên bang phải công nhận những "hôn nhân đồng tính" cuả các tiểu bang.

Tư pháp Anthony Kennedy, viết cho đa số như sau: Bộ Luật Bảo Vệ Hôn Nhân "vi phạm thủ tục cơ bản và nguyên tắc được bảo vệ công bình".

Tòa án nói rằng phần 3 của DOMA, định nghĩa hôn nhân như sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, vi phạm sự bảo đảm bình đẳng của Hiến pháp Hoa Kỳ.

"Hiệu lực thực tế của bộ luật này là áp đặt một bất lợi, một tình trạng phân biệt đối xử, và do đó, một sự kỳ thị trên tất cả những ai tham gia vào những cuộc hôn nhân đồng tính được hợp pháp hoá bởi quyền lực không thể tranh cãi cuả các Tiểu Bang HK".

Tư Pháp Antonin Scalia, đại diện cho thiểu số bất đồng, đã bác bỏ giả định của phe đa số là bộ luật có mục đích "chê bai", "làm tổn thương", "xuống cấp", "hạ thấp" và "làm nhục" cá nhân đồng tính.

Thay vào đó, ông giải thích, DOMA "chỉ làm một việc là hệ thống hóa một khía cạnh của hôn nhân mà xã hội của chúng ta chưa từng bao giờ đặt câu hỏi trong hầu hết lịch sử của nó - Thực ra, hầu như tất cả các xã hội trong tất cả lịch sử nhân loại cũng đã không bao giờ đặt câu hỏi như thế"

"Nếu một xã hội muốn có thay đổi thì đó là một điều," ông nói, "nhưng lại là một điều khác khi mà một tòa án dùng pháp luật để áp dụng thay đổi" bằng cách tuyên bố những người chống đối (hôn nhân đồng tính) là "kẻ thù của nhân loại."

Những người phản đối "hôn nhân đồng tính" đã lên tiếng lo ngại về quyền tự do tôn giáo nếu hôn nhân được định nghĩa lại.

Ở các tiểu bang công nhận "hôn nhân đồng tính," các cơ sở bác ái xã hội cuả Công Giáo đã bị buộc phải đóng cửa vì chỉ đặt con nuôi cho một gia đình có một người mẹ và một người cha. Các cơ quan phi lợi nhuận và chủ doanh nghiệp tư nhân cũng đã phải đối mặt với nhiều áp lực và các vụ kiện buộc họ phải công nhận hôn nhân đồng tính, đi ngược với với niềm tin tôn giáo của họ.

Hậu quả cuả phán quyết về hôn nhân này sẽ có những tác động sâu rộng, vì luật DOMA có ảnh hưởng đến hơn 1.000 luật của liên bang và cả một khối to lớn cuả các quy định liên bang khác.

Cùng ngày, Tòa án tối cao cũng bác bỏ đơn kháng cáo bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California (California’s Proposition 8

Nhắc lại sau khi một tòa án California phán quyết rằng "hôn nhân đồng tính" phải được công nhận trong tiểu bang, những người bảo vệ hôn nhân đã phát động một chiến dịch sửa đổi hiến pháp để công nhận hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ.

Trưng Cầu Dân Ý số 8 đã được phê duyệt bởi cử tri nhưng nhanh chóng bị thách thức tại tòa án. Một tòa cấp dưới đã phán quyết rằng các đề xuất là không hợp hiến, và trường hợp được kháng cáo lên toà trên.

Tòa án tối cao đã bác bỏ kháng cáo dựa trên cơ sở kỹ thuật chứ không phải là trên cơ sở giá trị, có nghĩa là phán quyết của tòa cấp dưới bãi bỏ Trưng Cầu Dân Ý số 8 vẫn có hiệu lực. Nói cách khác vấn đề 'hôn nhân đồng tính' sẽ được đấu lại tại California.

Theo phán quyết này, các tiểu bang có thể chọn định nghĩa hôn nhân cho phù hợp với mình. Về các tiểu bang hợp pháp hóa "hôn nhân đồng tính" thì chính phủ liên bang phải công nhận giá thú cuả họ. Hiện nay, chỉ có 12 tiểu bang và District of Columbia công nhận "hôn nhân đồng tính".

Hội Đồng Giám Mục HK, Đức Hồng Y Timothy Dolan của New York, chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Công Giáo Hoa Kỳ, và Đức Tổng Giám Mục Salvatore Cordileone của San Francisco, Chủ tịch Tiểu ban khuyến khích và bảo vệ hôn nhân, đã nhanh chóng ra một tuyên bố về phán quyết cuả Tối Cao Pháp Viện là một “Ngày bi thảm cho Hôn Nhân và cuả Quốc Gia"
 
Lời tuyên bố như sau.

"Hôm nay là một ngày bi thảm cho hôn nhân và cuả đất nước chúng ta. Tòa án Tối cao đã thực hiện một sự bất công sâu sắc cho người dân Mỹ bằng cách bác bỏ một phần của bộ luật Bảo Vệ Hôn Nhân cuả Liên Bang. Tòa án đã làm sai. Chính phủ liên bang phải tôn trọng sự thật rằng hôn nhân là sự kết hợp giữa một người nam và một người nữ, ngay cả khi các tiểu bang không làm như vậy. Việc bảo tồn tự do và công lý đòi hỏi tất cả các luật lệ, dù là cuả liên bang hay tiểu bang, phải tôn trọng sự thật, kể cả sự thật về hôn nhân. Cũng là bất hạnh khi mà Tòa án đã không nắm lấy cơ hội để bảo vệ cuộc Trưng Cầu Dân Ý số 8 cuả California mà thay vào đó quyết định không đưa ra phán quyết nào về vấn đề này. Lợi ích chung của tất cả mọi người, đặc biệt là cuả các con em cuả chúng ta, phụ thuộc vào một xã hội có sự cương quyết để duy trì sự thật về hôn nhân. Bây giờ là thời gian để nỗ lực hơn nữa trong việc làm chứng cho sự thật này. Những quyết định này là một phần của một cuộc tranh luận chung có những hậu quả nghiêm trọng. Tương lai của hôn nhân và hạnh phúc của xã hội chúng ta đang bị treo trên một sợi dây đu.

"Hôn nhân là định chế duy nhất, kết hợp một người nam và một người nữ trong cuộc sống, cung cấp một nền tảng vững chắc là Có Cha Có Mẹ cho mọi đứa trẻ sinh ra từ sự kết hợp của họ.

"Nền Văn hóa của chúng ta đã quá lâu khinh thường những gì đã được xác nhận qua bản chất cuả con người, kinh nghiệm, sự hợp lẽ, và qua sự thiết kế khôn ngoan của Thiên Chúa: đó là sự khác biệt giữa một người nam và một người nữ là quan trọng, và sự khác biệt giữa một người mẹ và một người cha cũng là quan trọng. Trong khi văn hóa thất bại nhiều trong việc tăng cường hôn nhân, nhưng điều này không phải là lý do để từ bỏ hôn nhân. Bây giờ phải là thời gian để củng cố hôn nhân thêm lên, không phải là lúc để tái định nghiã nó.

"Khi Chúa Giêsu dạy về ý nghĩa của hôn nhân - là suốt đời, là sự kết hợp một vợ một chồng – Chuá đã nhắc lại rằng sự sáng tạo ra con người của Thiên Chúa ngay từ "thuở ban đầu" là có nam có nữ (x. Mt 19). Khi đương đầu với phong tục và pháp luật của thời đó, Chúa Giêsu đã dạy một chân lý phổ biến mà mọi người có thể hiểu được. Sự thật của hôn nhân sẽ tồn tại, và chúng tôi sẽ tiếp tục mạnh dạn tuyên bố với sự tự tin và với lòng từ thiện.

"Bây giờ thì Tòa án tối cao đã ban hành quyết định rồi, với một quyết tâm mới chúng tôi kêu gọi tất cả các nhà lãnh đạo và tất cả mọi người dân của đất nước tốt đẹp này hãy đứng lên để chung nhau kiên định việc thúc đẩy và bảo vệ ý nghĩa độc đáo của hôn nhân: một người nam, một người nữ, cho sự sống. Chúng tôi cũng cầu nguyện cho việc xét lại quyết định của Tòa án và những hậu quả được giải thích rõ ràng thêm."