THIÊN CHÚA DUY NHẤT TRONG MỘT BẢN THỂ và PHÂN BIỆT TRONG BA NGÔI VỊ


Giáo hội có sứ mạng loan báo Tin mừng của Thiên Chúa, đó là Tin mừng về một Thiên Chúa duy nhất, nhưng có Ba Ngôi Vị: Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. Chúa Cha là Đấng dựng nên vũ trụ, đã sinh hạ Con của Người vào trần gian. Chúa Con là Đấng được sinh ra từ Chúa Cha, Ngài đến trần gian để hoàn tất lời hứa của Chúa Cha, Đấng cứu chuộc. Chúa Thánh Thần phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con bởi tình yêu, Ngài đến thế gian để thánh hoá, và cũng gọi Ngài là Đấng thánh hoá ủi an.
          Chúng ta biết được đôi chút về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi qua công trình sáng tạo vũ trụ của Thiên Chúa và qua sự mạc khải của Chúa Giê-su khi Ngài đến thế gian này. Do đó, sự hiểu biết của chúng ta về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi còn rất giới hạn, chi là hạt cát trong sa mạc hay chỉ là giọt nước giữa biển khơi. Và điều đó đã được thánh Augustinô cảm nhận một cách sâu sắc khi ngài suy tư và tìm hiểu mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi.
          Tuy nhiên, nói như thế không lẽ chúng ta chỉ tin vào Thiên Chúa một cách mờ mịt mà không có hiểu biết nào sao? Và điều đó Thiên Chúa cũng không muốn con người có niềm tin như vậy. Thiên Chúa vẫn có những phương thế để cho con người truy tầm hiểu biết về Ngài bằng cách mạc khải qua vũ trụ thiên nhiên, qua những sứ giả và đặc biệt là qua Người Con yêu dấu của Ngài. Nhờ đó con người nhận ra Thiên Chúa là Đấng Thánh, là Chúa trên các Chúa, là Đấng Chân Thiện Mỹ.
          Trong bài này, người viết xin trình bày mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi với những vấn đề: Thiên Chúa duy nhất trong bản thể, phân biệt trong Ngôi Vị và đưa ra những đặc tính duy nhất và phân biệt. Với những kiến thức đã học và một số tài liệu tham khảo vẫn còn hạn hẹp, cho nên cách giải quyết vấn đề vẫn còn nhiều khó khăn và chưa rõ mấy. Do đó, người viết rất mong được Cha giáo chỉ dạy thêm nữa.
I. Thiên Chúa duy nhất trong một bản thể
          1. Ba Ngôi đồng bản thể
          Để có thể hiểu cách mạch lạc hơn về Ba Ngôi đồng bản thể, trước tiên chúng ta đi tìm hiểu ý niệm bản thể: Theo triết học, bản thể là chủ thể hoặc thể nền cáng đáng các phụ thể, bản chất của bản thể như một thứ gì lập hữu nghĩa là hiện hữu tự thân; theo thần học, bản thể đôi khi đồng nghĩa với bản tính để chỉ hữu thể đơn nhất của Thiên Chúa. Như vậy, Ba Ngôi đồng bản thể có nghĩa là cùng chung một bản thể Thiên Chúa.
Theo thánh Augustinô, Anselmô và Thomas, Bản thể Thiên Chúa như là biến cố của sự tương quan được thực hiện từ vĩnh cửu. Các ngài đặt nền móng suy tư trên truyền thống về siêu hình học và xác định Bản thể Thiên Chúa như là một bản thể tự tồn tự tại, không bị giới hạn. Vì Thiên Chúa luôn hằng hữu, cho nên nơi Ngài không có tuỳ thể. [1]
Hơn nữa, sự sinh sản Chúa Con và sự phát xuất Chúa Thánh Thần thuộc về hành vi tất yếu của Thiên Chúa. Chúa Cha sinh ra Chúa Con không chỉ vì Ngài muốn điều đó mà thôi nhưng đó còn là điều tất yếu và đối với việc phát xuất Chúa Thánh Thần cũng vậy. Các mối phát xuất và các mối tương quan được thiết lập trong Bản thể Thiên Chúa, vì thế người ta phải nói rằng: mối tương quan nơi Thiên Chúa là mối tương quan thực hữu và đồng nhất với yếu tính của Thiên Chúa, bởi vì nơi Thiên Chúa không có chi là phụ thể bám vào chủ thể, nhưng bất cứ điều gì có nơi Thiên Chúa cũng chính là yếu tính của Người. Điều đó có nghĩa là Ba Ngôi Vị Thiên Chúa có chung một Bản thể.[2]
Theo Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, qua việc nhập thể của Con Thiên Chúa mạc khải rằng Thiên Chúa là Cha từ muôn thuở và Chúa Con đồng bản thể với Chúa Cha, nghĩa là Chúa Con ở trong Chúa Cha và cùng với Chúa Cha là Thiên Chúa duy nhất. Thêm vào đó, sứ mạng của Chúa Thánh Thần, Đấng Chúa Cha cử đến nhân danh Chúa Con và Được Chúa Con gởi đến “từ nơi Chúa Cha” (Ga 15,26) mạc khải rằng Chúa Thánh Thần cùng với Chúa Cha và Chúa Con là một Thiên Chúa duy nhất. “Người cùng được phụng thờ và tôn vinh với Chúa Cha và Chúa Con”[3].
          2. Một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính
          Trong thời Cựu Ước, dân Israel chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, và người Israel có nét độc đáo là đạo độc thần so với các tôn giáo của các dân tộc láng giềng. Sách Đệ Nhị Luật viết điều họ tuyên xưng ấy: “Nghe đây hỡi Israel! Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta là Đức Chúa duy nhất. Hãy yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em hết lòng, hết dạ, hết sức anh em” (Dnl 6, 4).
          Trong thời Tân Ước, Chúa Giê-su đã nói cho các môn đệ của Ngài biết về Thiên Chúa duy nhất nhưng có Ba ngôi. Trong Tin mừng Gioan,  Chúa Giê-su đã nói: “Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Cha” (Ga 10, 38) và “Con không tin rằng Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy sao? Các con hãy tin đi: “Thầy ở trong Cha và Cha ở trong Thầy” (Ga 17, 11).
Thiên Chúa là thân phụ Đức Giê-su Kitô: “Thiên Chúa và Cha của Đức Giê-su Kitô của chúng ta” trong các bản văn vinh tụng; “Thiên Chúa và Cha, Đấng đã cho Đức Giê-su trổi dậy từ cỗi chết” (Rm 4,24). Hơn nưa, thánh Phaolô quy gán những tác động như nhau cho Đức Kitô hay cho Thần Khí. Thí dụ: nhờ phép rửa, các tín hữu được ở trong Đức Kitô hay ở trong Thần Khí; đối lại Thần Khí cũng ở trong họ và Đức Kitô cũng ở trong họ(Rm 8,9). Niềm vui của các tín hữu được gọi là “trong Thần Khí” (Rm 4,1) cũng như trong “Đức Chúa” (Pl 3,1)[4].
Giáo hội không tuyên xưng ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: “Ba Ngôi đồng bản thể”. Các Ngôi Vị Thiên Chúa không chia nhau một thiên tính duy nhất, nhưng mỗi Ngôi Vị đều là Thiên Chúa trọn vẹn: Chúa Cha là gì thì Chúa Con là thế ấy, Chúa Con là gì thì Chúa Cha là thế ấy, và Chúa Cha và Chúa Con là gì thì Chúa Thánh Thần là thế ấy, nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính.[5]
          Thêm vào đó, toàn bộ nhiệm cục của Thiên Chúa là công trình chung của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì, cũng như Ba Ngôi chỉ có một bản tính, Ba Ngôi cũng chỉ có cùng một hoạt động. Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần không phải là ba nguyên lý của thụ tạo mà là một nguyên lý duy nhất.[6]
          Từ những điểm trên đây, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa là Đấng duy nhất trong hoạt động tạo dựng, cứu chuộc và hành trình đời sống Giáo hội của Người.
II. Thiên Chúa phân biệt trong Ba Ngôi Vị
          1. Chúa Cha, Chúa Con, Chúa Thánh Thần phân biệt nhau
          Chúa Cha không phải là Chúa Con, và Chúa Con không phải là Chúa Cha, Chúa Thánh Thần không phải là Chúa Cha hoặc Chúa Con.
Người là Đấng Duy nhất Đơn Thuần. Nhưng Người cũng là ba Ngôi Vị phân biệt. Mỗi Ngôi Vị thực hiện công trình chung theo đặc tính riêng.
Mạc khải Cựu Ước cho biết Thiên Chúa sáng tạo và hoạt động bằng Lời, bằng Thần Khí của Người: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước. Thiên Chúa phán: hãy có ánh sáng…” (St 1, 1-31). Qua Cựu Ước, Thiên Chúa biểu lộ mình ra như một cái Tôi mà hữu thể và hoạt động mang dấu ấn của một sức sống riêng tư sung mãn. Người được nhìn nhận như là Ngôi vị vừa siêu việt, nhưng lại vừa gần gũi với con người. Và Cựu Ước đã nhân cách hoá Lời của Giavê, Khôn ngoan, Thánh Khí là những dấu chứng biểu lộ sự sống phong phú của Thiên Chúa.
Còn dựa vào Tân Ước: “nhưng đối với chúng ta, chỉ có một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành vạn vật và là cùng đích của chúng ta; và cũng chỉ có một Chúa là Đức Giê-su Kitô, nhờ Người mà vạn vật được tạo thành, và nhờ người mà chúng ta được hiện hữu” (1Cr 8,6), Hội thánh tuyên xưng một Thiên Chúa là Cha, Đấng tạo thành mọi sự, một Chúa Giê-su Kitô, cùng đích của mọi sự, và một Chúa Thánh Thần, trong muôn vật được hiện hữu. Đặc biệt, các sứ mạng của Thiên Chúa nơi mầu nhiệm nhập thể của Chúa Con và trong việc trao ban Chúa Thánh Thần, tỏ lộ nét đặc thù của từng Ngôi vị.[7]
Cho nên chúng ta thấy tuy là một Thiên Chúa duy nhất, nhưng có Ba Ngôi vị phân biệt. Mỗi Ngôi Vị Thiên Chúa thể hiện đặc tính riêng của mình trong Ba Ngôi, nhưng luôn luôn có sự liên kết và tương quan mật thiết với nhau, để không thể tách ra thành ba Thiên Chúa, mà chỉ có một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị.
          2. Ba ngôi phân biệt do các mối tương quan nguồn gốc
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã khẳng định chân lý về Thiên Chúa Ba Ngôi: “Chúa Cha là Đấng sinh ra, Chúa Con là Đấng được sinh ra, Chúa Thánh Thần là Đấng phát xuất từ Chúa Cha và Chúa Con”[8].
Ngôi Lời, phân biệt với Chúa Cha, không được tạo thành nhưng được sinh ra từ đời đời. Dưới mắt người đời, Ngôi Lời đã làm người. Nhưng trước mắt Thiên Chúa, Ngôi Lời không trở thành. Người luôn luôn ở với Chúa Cha. Người hiện hữu trong Cội Nguồn là Chúa Cha, và không bao giờ tách biệt khỏi Chúa Cha.
Thiên Chúa không khởi sự làm Cha nhưng từ đời đời Người là Cha của Chúa Con. Từ muôn thuở, Người sinh hạ Chúa Con. Chúa Con không là một phần của Chúa Cha, tách rời khỏi Chúa Cha. Người là Hình ảnh phản chiếu ánh sáng của Chúa Cha. Cũng như Ánh sáng luôn chiếu rọi, Chúa Cha không ngừng sinh ra Chúa Con.
Chúa Con không tách rời khỏi Chúa Cha, mặc dù phân biệt với Chúa Cha. Không vì ân sủng, nhưng vì được tham gia vào yếu tính, mà Ngôi Lời là Con.
Ngôi Ba là Thánh Thần. Niềm tin vào Thánh Thần là đặc thái của Kitô giáo. Thánh Thần cũng vĩnh cửu. Trong lề luật Cựu Ước và trong Tin Mừng đã có Người. Người đã có, hiện có và sẽ có cùng Chúa Cha và Chúa Con. Người có từ đời đời, nhưng Người đổi mới mọi sự. Thánh Thần của Chúa Cha và Thánh Thần của Chúa Con là một[9].
Khi nói về Ba Ngôi phân biệt, thánh Thomas cho thấy trong Thiên Chúa, ngoài tương quan ra, không còn có điều gì như là thực tại nào khác; Ngôi Cha là Đấng sinh đẻ và nhiệm xuy, Ngôi Con là Người được sinh ra và nhiệm xuy, và Ngôi Thánh Thần là Đấng được nhiệm xuy. Bốn tương quan (sinh, nhiệm xuy, được sinh ra và được nhiệm xuy) cấu tạo nên Ba Ngôi Vị Thiên Chúa[10].

(còn tiếp phần sau...)

[1] Lm. Ant Hà Văn Minh, Thần Học Ba Ngôi, Giáo Trình Học, xb 2007, tr 35.
[2] Op. cit, tr 41.
[3] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 262 – 263.
[4] Lm. Phan Tấn Thành, Mầu Nhiệm Thiên Chúa, xb 2001, tr 104.
[5] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 253.
[6] Op. cit, số 258.
[7] Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 258.
[8] Op. cit, số 254.
[9] Gm. Bùi Văn Đọc, Mầu Nhiệm Thiên Chúa , tr 299
[10] Lm. Ant Hà Văn Minh, Thần Học Ba Ngôi, Giáo Trình Học, xb 2007, tr 41-42.

CON NGƯỜI TRONG TƯƠNG QUAN VỚI THƯỢNG ĐẾ

Nói như Jacpers, khi ta tương quan với Thượng Đế tức là ta muốn Thượng Đế trở thành ngôi vị ngang hàng với ngôi vị của ta. Ngang hàng với ngôi vị ở đây không có nghĩa là ta hạ thấp, hay đánh giá thấp Thượng Đế mà điều này cho chúng ta thấy giá trị của mỗi con người. Như vậy có nghĩa là tương quan giữa ta và Thượng Đế là tương quan đặt trong chiều kích giữa hai chủ thể thực sự, chứ không phải là một thứ tương quan gì cao siêu đến nỗi ta không thể hiểu được, mà lai càng không phải là thứ tương quan thông thường. Khi ta nhận ra điều này, ta sẽ thấy Thượng Đế gần gũi với ta chứ không phải là một Đấng quá cao vời đến nỗi chỉ biết “kính nhi viễn chi”, không ăn nhập với cuộc sống của chúng ta. Chúng ta đều biết rằng, mỗi người khi sinh ra trên đời này đều “được ném” vào trong kiếp nhân sinh. Cùng với thời gian mỗi người được lớn lên trong những môi trường cụ thể, để rồi mỗi người đều có sử tính của cuộc đời mình. Sử tính này gắn liến với mỗi con người cụ thể, để rồi nó làm nên những nhân vị. Chúng ta sống với cuộc đời, ta lăn lộn, gắng sức để tìm những điều tốt đẹp, để thỏa mãn niềm khát khao trong sâu thẳm tâm hồn ta. Niềm khát khao đó, không gì khác là được thấy một Đấng Siêu Việt. Nơi người và chỉ có Người mới thỏa nấp được sự khát khao vô tận trong lòng ta. Từ đây, hình ảnh một Đấng Siêu Việt mãi mãi thôi thúc ta đến với Người, đến với suối nguồn của tương quan giữa ta và Thượng Đế. Chỉ có tương quan này mới đảm bảo cho cuộc sống của ta có ý nghĩa trọn vẹn. Hạnh phúc mỗi người sẽ được no thỏa khi ta có tương quan với Đấng Siêu Việt.
Một dấu hiệu duy nhất cho ta nhận ra tương quan giữa ta với Thương Đế đó là lòng khát khao tìm kiếm căn nguyên tối hậu, lòng khát khao này luôn ngự trị trong lòng mỗi người. Khi ta thỏa mãn niềm khát khao này bằng tương quan với Thượng Đế là lúc ta tìm thấy niềm vui và hạnh phúc đích thực. Chính niềm vui này là cửa ngõ cho ta mở ra tới vô biên. Niềm vui này không do ta tạo nên, cũng chẳng do người khác ban phát mà là chính Thượng Đế Đấng Siêu Việt đã ghi dấu vào trong cuộc đời ta, vào trong tâm hồn ta. Niềm vui này sẽ ở mãi trong cuộc đời ta. Niềm vui này sẽ mở ra cho ta những tương quan với người khác và với vạn vật. Nơi đây, nơi tương quan của niềm vui và hạnh phúc ta có thể thể hiện tình yêu của Đấng Siêu Việt cho mọi người.
Tình yêu Thượng Đế dành cho loài người hoàn toàn khác biệt với các loại tình yêu bình thường trong mối tương giao nhận loại. Qua kinh nghiệm thông thường, chúng ta nhận biết mình chỉ có thể được yêu nếu đáp ứng được những điều kiện nào đó: nếu chúng ta dâng hiến điều gì, trở thành người thế nào, làm được việc gì chẳng hạn. Đó là loại tình yêu nếu. Ngay cả tình yêu đẹp đẽ hơn nữa, chúng ta được yêu vì con người chúng ta như thế nào đó như chúng ta chúng ta trông đáng yêu, chúng ta giầu có, chúng ta rộng rãi, thành công… đó là loại tình yêu vì. Nhưng tình yêu của Thiên Chúa thì khác hẳn, Ngài yêu chúng ta dầu chúng ta như thế nào hoặc làm gì đi nữa. Đây là loại tình yêu mặc dù. Chẳng một ai mà không được Thượng Đế yêu từng giây, từng phút. Thế có nghĩa là mối tương giao kỳ diệu với Thượng Đế đều được danh cho mỗi người, cho anh, cho tôi cho chị.Thượng Đế không thiên vị ai bao giờ.
Bằng ánh mắt, nụ cười, lời yêu thương ta có thể mang đến cho người khác niềm vui và hạnh phúc của ta có được từ tương quan với Thượng Đế. Trong tương quan với Thượng Đế chúng ta kiến tạo một niềm vui thực sự viên mãn chứ không phải thứ niềm vui nhất thời, chóng qua, cũng không phải thứ niềm vui đơn độc.

LOẠI BỎ THÓI TRÌ HOÃN



“Tôi biết mình phải làm gì. Tôi hiểu rõ những ích lợi của việc đó. Tôi cũng biết những hậu quả tiêu cực nếu mình không làm nó. Tôi có đủ năng lực và công cụ để thực hiện công việc. Nhưng tôi vẫn không làm”.
Chuyện này có vẻ quen với bạn ư?
Chắc là bạn sẽ đồng ý với tôi rằng, tất cả chúng ta đều phải đương đầu với những lần trì hoãn có thể ngăn cản ta thực hiện những điều thực sự thiết yếu với sự thành công của mình. Chúng ta không thể kiểm soát mọi điều xảy đến với mình, nhưng ta luôn có thể luyện tập cách thức kiểm soát những tác động của chúng xảy đến với ta. Và ta cũng không nên để những lần trì hoãn đó lấn lướt bản thân. Chúng ta không thể đầu hàng trước những thói quen bòn rút năng lượng và trở thành nạn nhân của thói trì hoãn liên miên đó.
Tại sao chúng ta không nên để mình rơi vào tình huống “Cảm thấy tội lỗi vì không thể hoàn thành công việc?” Nhưng câu hỏi trước tiên cần phải trả lời là, tại sao chúng ta lại cứ trì hoãn như thế?
Tại sao chúng ta trì hoãn?
Trước khi tìm tới một liệu pháp cho căn bệnh rất phổ biến là “trì hoãn”, chúng ta hãy cùng nhìn lại một số nguyên nhân tiềm ẩn phía sau nó.
1. Chờ khi có hứng
Bạn không thích làm việc đó. Tâm trạng bạn không thoải mái, nó đang xuống dốc về mặt cảm xúc.
2. Chờ tới đúng lúc
Bạn không nghĩ đã tới lúc cần phải hành động trong khi thực sự thì thời điểm đó đã tới rồi.
3. Thiếu những mục tiêu rõ ràng
Làm sao bạn có thể xắn tay vào công việc khi mình chưa rõ mục tiêu của nó chứ?
4. Coi nhẹ mức độ khó khăn của công việc  
Bạn nghĩ công việc đó không phứ tạp lắm, nhưng khi bắt tay vào, bạn mới nhận ra cần phải nỗ lực nhiều hơn bạn tưởng. Vậy tại sao không trì hoãn nó lại nhỉ?
5. Không đề ra những tiêu chuẩn rõ ràng về nhiệm vụ được giao
Bạn đã bắt tay vào công việc nhưng lại chẳng hề có ý tưởng chính xác về kết quả đặt ra của nhiệm vụ được giao. Bạn không hiểu rõ những yêu cầu trong khi tiến hành công việc.
6. Bạn có cảm giác bị ép buộc phải làm việc
Khi bạn nghĩ mình phải làm gì đó, sự hưng phấn trong bạn sẽ giảm sút đi. Lúc đó, trái tim và khối óc bạn sẽ không thực sự ăn khớp với nhau.
7. Nhiệm vụ được giao quá mơ hồ
Rốt cuộc thì bạn cũng đã bắt tay vào việc, nhưng nhiệm vụ được giao quá mơ hồ, mù mờ. Khi đó, bạn khó có thể tìm được lý do tích cực để tiếp tục công việc.
8. Sợ hãi
“Tôi không nghĩ mình có thể làm nó. Nếu tiếp tục, tôi sẽ thất bại”.
9. Cầu toàn
 
“Tôi chẳng có kỹ năng cũng như phương tiện phù hợp để làm việc này hoàn hảo nhất. Vì thế, tôi chẳng muốn làm chút nào”.
 
Từ “khoanh tay” đến “hành động”
Sau khi đã thu thập mọi phương tiện, kỹ năng và cả những chiến lược làm việc, tại sao bạn lại không ứng dụng tất cả những gì bạn biết vào công việc? Tại sao bạn lại chọn cách “khoanh tay thúc thủ” thay vì việc xắn tay áo lên hành động?
Dưới đây là một số những nguyên nhân gây tâm lý sợ hãi có thể đã diễn ra với bạn. Chúng gây áp lực lên khả năng sáng tạo, tài năng và cả những tài nguyên còn ẩn chứa, chưa được khai phá trong bạn. Những nỗi sợ đó là:
1. Sợ thất bại
Nếu tôi đã từng thất bại, tôi phải làm thế nào để kiểm soát những bối rối đó? Tốt hơn hết là đừng xuất hiện trong lần trình bày này. Vậy là trì hoãn thôi.
2. Sợ thành công
Nếu làm tốt lần này, người ta sẽ chờ đợi tôi làm được như thế ở lần sau. Liệu tôi có thể đương đầu với những áp lực để tiếp tục gặt hái thành công?
3. Sợ phá vỡ những truyền thống
Nếu những trật tự cũ bị phá vỡ, ai mà biết tình huống mới sẽ diễn ra như thế nào? Thôi thì ta cứ để mọi thứ hệt như cũ đi. Tại sao phải chấp nhận rủi ro chứ?
4. Sợ hoàn hảo
Nếu bắt đầu công việc bây giờ, tôi sẽ không thể hoàn thành nó cho tới khi đạt được một mức độ hoàn hảo nhất định. Mà liệu tôi có thời gian để đạt tới sự hoàn hảo đó không?
5. Sợ mất mát
 
Nếu làm việc đó bây giờ, có thể tôi sẽ mất mát một vài thứ.
 
Nhận ra bạn đang trì hoãn
Làm thế nào để nhận ra bạn đang có “triệu chứng” của “căn bệnh trì hoãn”?
  • Bạn dành cả ngày chỉ để làm những việc kém quan trọng nhất trong danh sách những việc phải làm.
  • Bạn đọc email nào đó tới hơn một lần và không bắt tay vào làm gì với nó.
  • Bạn bắt tay vào những công việc quan trọng nhất, nhưng gần như ngay lập tức ngừng lại để pha cà phê hay kiểm tra email.
  • Bạn lưu lại một công việc nào đó trên danh sách những việc cần làm trong suốt một thời gian dài, ngay cả khi bạn biết nó rất quan trọng.
  • Bạn thường xuyên nói “Có” và để hàng loạt những công việc không quan trọng lấn át toàn bộ quỹ thời gian của mình.
Thói trì hoãn công việc có thể phụ thuộc vào cả bạn và công việc. Có thể vì hai lý do sau:
  1. Bạn thấy công việc không thú vị, hoặc
  2. Bạn thấy công việc quá tải với mình
Và bây giờ, bạn hãy nghĩ về những triệu chứng của mình và các nguyên nhân của sự trì hoãn. Và câu hỏi chúng ta sẽ nghĩ tới là, làm thế nào để loại bỏ thói quen trì hoãn đó?

Công thức chống trì hoãn

Quan điểm sống “ì ạch”, thường xuyên trì hoãn mọi việc tiềm ẩn các tác động rất tiêu cực tới những kết quả bạn nhận về, sự thành công và thậm chí, chính cuộc đời bạn. Và đây là một chiến lược giúp bạn đánh bại thói trì hoãn và nhanh chóng gây dựng những kết quả tích cực cho mình. Chúng ta gọi nó là Kỹ thuật IMAN:

I : Tôi
M ust : Phải
A ct : Hành động
N OW: Ngay bây giờ
Đỗ Dương (Theo http://dantri.com.vn)

TÌM HIỂU HIỆU QUẢ DO NHÂN (EX OPERE OPERATO) VÀ DO SỰ (EX OPERE OPERATIS)

Trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa, các Bí tích chiếm một vai trò hết sức quan trọng. Có thể khẳng định rằng, các Bí tích là những máng thông chuyển ân sủng của Thiên Chúa đến cho con người, là mối giây liên kết giữa Thiên Chúa và con người, nhằm để thánh hóa và làm cho con người ngày càng trở nên giống Chúa Kitô hơn. Vì thế, Công đồng Vaticanô II đã khẳng định rằng: “Các Bí tích có mục đích thánh hóa con người, xây dựng thân thể Chúa Kitô, và sau cùng là thờ phương Thiên Chúa. Tuy nhiên, là những dấu chỉ, các Bí tích còn giữ vai trò giáo huấn nữa. Không những các Bí tích giả thiết phải có đức tin, mà còn dùng lời nói và sự vật để nuôi dưỡng, củng cố và diễn tả đức tin đó. Do đó, được gọi là các Bí tích Ðức Tin. Thực ra các Bí tích ban ân sủng, nhưng việc cử hành các Bí tích còn là việc chuẩn bị các tín hữu đón nhận ân sủng đó một cách hữu hiệu để thờ phượng Chúa đúng cách và để thực thi đức bác ái”(PV,59). Như thế, để được thánh hóa và được trở nên giống Đức Kitô chúng ta cần biết đến nguyên tắc ex opere operato và ex opere operatis, nghĩa là “hiệu quả do sự” và “hiệu quả do nhân”. Để được rõ ràng và sáng tỏ, chúng ta thử áp dụng nguyên tắc đó vào Bí tích Rửa tội cho anh chị em tân tòng.
1.     Giải thích nguyên tắc ex opere operato và ex opere operatis[1]
Hiệu quả do sự (ex opere operato) có nghĩa là do chính hành động của Bí tích (chất thể và mô thể), chứ không do tình trạng tâm hồn (thánh thiện hay tội lỗi) của thừa tác viên hay thụ nhân. Khi cử hành các bí tích theo đúng những gì Hội thánh dạy và có ý ngay lành thì thụ nhân được ân sủng của Thiên Chúa nếu không mắc ngăn trở.
Nguyên tắc do nhân (ex opere operatis) có nghĩa là do ý thức, tâm tình và lòng tin của thừa tác viên và của thụ nhân. Biết rằng hiệu quả của bí tích là do sự, nhưng không vì thế mà thừa tác viên cử hành cách máy mốc; hoặc thụ nhân đón nhận cách thụ động. Bởi thế, thái độ cộng tác của con người cách tích cực (đức tin, lòng hoán cải, thái độ nội tâm, cầu nguyện, tĩnh tâm…) sẽ làm cho những ân sủng lãnh nhận nảy sinh được nhiều hoa trái thiêng liêng.
Chính vì thế ngoài yếu tố do sự (ex opere operato), cũng cần quan tâm đến yếu tố do nhân (ex opere operatis) nữa.   
2.     Thừa tác viên và thụ nhân[2]
Chúng ta biết rằng, việc thành sự của Bí tích không phụ thuộc vào tình trạng chủ quan của thừa tác viên hay thụ nhân. Nhưng để được lãnh nhận ơn ích một cách trọn vẹn thì chắc chắn cũng cần đến tâm tình xứng đáng của thừa tác viên và cả thụ nhân.
a.     Thừa tác viên
Cần khẳng định rằng, hiệu lực của Bí tích không lệ thuộc vào con người của thừa tác viên. Theo thánh Augustin, thánh tẩy do người lạc giáo làm vẫn thành sự. Còn thánh Tôma giải thích lý do tại sao lại như vậy. Ngài phân biệt, Chúa Kitô mới là tác viên chính của bí tích, còn người cử hành chỉ là thừa tác viên, nghĩa là một dụng cụ do Chúa Kitô sử dụng. Bởi thế, hiệu lực của bí tích tùy thuộc vào tác viên chứ không do thừa tác viên. Nghĩa là khi thừa tác viên cử hành các bí tích, thì chính Chúa Giêsu hành động với quyền năng Chúa Thánh Thần mà ban ân sủng cho chúng ta.
Đồng thời, tư cách và tâm tình của thừa tác viên khi cử hành bí tích cũng góp phần quan trọng. Mặc dầu ân sủng được ban từ Ba Ngôi Thiên Chúa, nhưng để thông chuyển ân sủng cách trọn vẹn thì thừa tác viên cần có tâm tình và cử hành đúng theo ý của Hội thánh qui định.[3] Vì Bí tích là của Chúa Kitô và của Giáo hội, thừa tác viên là người được Chúa và Giáo hội ban quyền để cử hành Bí tích, nghĩa là nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa và Giáo hội mà cử hành Bí tích. Bởi vậy, khi cử hành thừa tác viên phải có chủ ý và tâm tình tốt lành, nghĩa là cử hành với ý chí và qui hướng về mục đích là làm điều Giáo hội làm.
b.    Thụ nhân
Cần khẳng định rằng, các Bí tích chỉ dành cho những người sống chứ không dành cho người đã chết. Đối với thụ nhân, khi lãnh nhận các bí tích đều buộc phải có lòng tin và có ý muốn lãnh nhận. Lòng tin và ước muốn là hai thái độ hết sức cần thiết để giúp thụ nhân nhận lãnh bí tích thành sự, chứ không phải để lãnh nhận cho có kết quả. Để được lãnh nhận cách trọn vẹn, thụ nhân cũng cần có ý hướng ngay lành và yêu mến Thiên Chúa, nghĩa là thụ nhân luôn có một tâm hồn sẵn sàng để gặp gỡ Ba Ngôi Thiên Chúa; nếu thụ nhân đang trong tình trạng tội lỗi, vì lòng yêu mến Chúa, thụ nhân ăn năn sám hội và quyết tâm chừa bỏ những gì đã làm mất lòng Chúa và làm mất lòng tha nhân.    
3.     Áp dụng vào Bí tích Rửa tội cho anh chị em tân tòng 
Bí tích Rửa tội là một trong các Bí tích Khai tâm Kitô giáo, là Bí tích để giúp thụ nhân trở thành nghĩa tử của Thiên Chúa và Hội thánh. Bí tích Rửa tội là cửa ngỏ để cho thụ nhân bước vào trong đời sống mới, đời sống đức tin, và cũng là bí tích nuôi dưỡng đức tin. Được nuôi dưỡng và sống trong đức tin, nghĩa là được sống trong, sống cùng ân sủng của Thiên Chúa. Bởi vậy, là một người tân tòng, chúng ta phải có bổn phận giúp cho họ hiểu thế nào là ân sủng của Thiên Chúa. Hay nói rõ hơn, chúng ta cần chia sẻ thế nào cho họ hiểu và nhận biết hiệu quả ân sủng của Thiên Chúa ban khi cử hành Bí tích Rửa tội cho họ.
a.     Cần chia sẻ cho họ hiểu về “hiệu quả do sự”
Như phần trên, chúng ta đã đề cập đến “hiệu quả do sự” chung cho các bí tích. Hiệu quả do sự nghĩa là do chính hành động của bí tích, chứ không do tình trạng tâm hồn của thừa tác viên hay thụ nhân. Và cử hành đúng theo những gì Hội thánh dạy và có ý ngay lành thì thụ nhân được ân sủng của Thiên Chúa nếu không mắc ngăn trở.
Áp dụng vào Bí tích Rửa tội, chúng ta thấy ngay rằng, khi thụ nhân lãnh nhận Bí tích Rửa tội cũng chính là lúc nhận lãnh ân sủng của Thiên Chúa. Nhưng ân sủng đó do ai ban? Đó là điều mà thụ nhân và nhiều người sẽ thắc mắc. Do thừa tác viên ban ư? Xem ra có vẻ đúng, vì mọi sự tôi thấy thừa tác viên cử hành mà.
Nhưng hoàn toàn không phải thế đâu. Ân sủng là do chính Thiên Chúa ban. Vì thừa tác viên chỉ là công cụ hữu hình Thiên Chúa dùng để cử hành mà thôi. Thừa tác viên cử hành nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa và Giáo hội, chứ không nhân danh cá nhân của thừa tác viên đâu. Ân sủng mà thụ nhân lãnh nhận là do chính hành động của Bí tích, chứ không phải do tình trạng tâm hồn của thừa tác viên. Bí tích là của Chúa Giêsu thiết lập để ban ân sủng và thánh hóa loài người, chứ không phải của thừa tác viên. Chúng ta có thể đưa ra ví dụ rằng: Ông A tặng cho bà B một món quà, nhưng nhờ cháu C mang tới cho bà B. Như vậy, giá trị và ý nghĩa của món quà mà bà B nhận được không nằm ở chổ cháu C mang tới, nhưng giá trị và ý nghĩa nó phát xuất từ hành động yêu thương của ông A. Cháu C chỉ là người trung chuyển và truyền tải món quà, cho dù con người cháu C đó hiền lành hay không hiền lành thì không quan trọng, nhưng quan trọng là cháu C thực hiện đúng như những gì ông A hướng dẫn.
Vì lẽ đó, nếu khi cử hành Bí tích Rửa tội, thừa tác viên chưa chuẩn bị tâm hồn được trong sạch, hay còn mắc tội trọng thì cũng không ảnh hưởng gì đến việc ban ân sủng của Thiên Chúa, miễn là cử hành đúng nghi thức của Hội thánh dạy(GLHTCG,1256). Nghĩa là người thụ nhân vẫn được hưởng ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa từ Bí tích Rửa tội đã được cử hành đúng nghi thức của Hội thánh và không bị mắc ngăn trở. “Nguồn mạch của Bí tích chính là Ba Ngôi Thiên Chúa, và chỉ có Ba Ngôi Thiên Chúa là Đấng có quyền ban ân sủng, nên nghi thức ban bí tích chỉ là nguyên nhân dụng cụ và pháp lý, để Đức Kitô là nguyên nhân chính ban ân sủng của Ngài cho những ai thành tâm lãnh nhận.”[4] Bởi đó, ân sủng của Bí tích Rửa tội là do chính Thiên Chúa ban chứ không do thừa tác viên.
b.    Thứ đến giúp họ hiểu về “hiệu quả do nhân”
Hiệu quả do nhân, nghĩa là do ý thức, tâm tình, lòng thống hối và lòng tin của thừa tác viên và của thụ nhân. Không phải ân sủng được ban từ Ba Ngôi Thiên Chúa mà thừa tác viên và thụ nhân quên đi những điều trên. Bởi vậy, muốn cử hành và lãnh nhận Bí tích Rửa tội cách trọn vẹn, Giáo hội muốn thừa tác viên và thụ nhân phải có tâm tình, thái độ và lòng ước muốn rõ ràng, hay ít nhất là cách tiềm ẩn. Đối với thừa tác viên, ngoài việc phải lo liệu tâm tình bên trong cách sốt sắng và có ý ngay lành, việc lo liệu để cử hành Bí tích Rửa tội cách sùng kính cũng là một điều cần thiết. Việc đó không những thi hành đúng ý muốn của Hội thành, mà còn là gương sáng để đốt lên lòng tin của mọi Kitô hữu khi tham dự vào Bí tích Rửa tội. Điều đó củng nói lên sự kết hiệp của thừa tác viên với Chúa Giêsu Kitô, và cũng nói lên thừa tác viên đang sống trong ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đối với thụ nhân, khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội họ phải chuẩn bị ít nhất là hiểu biết về Tình Yêu Thiên Chúa, kế đến phải nói đến lòng sám hối và ước ao được rửa tội, và sau cùng là lòng tin và yêu mến Thiên Chúa. Vì Bí tích Rửa tội là bí tích đức tin (GLHTCG,1253). Có thể lấy ví dụ để minh họa: nếu một người làm nông mà cày xới và chuẩn bị thửa ruộng của mình cách chu đáo, và khi mưa xuống ắt hẵn thửa ruộng của ông ta sẽ tích tụ được nhiều nước và sẽ giúp hoa mầu tươi tốt, sinh nhiều hoa trái. Do đó, muốn hưởng được hoa trai của Bí tích Rửa tội cách hiệu quả, nghĩa là được kín múc ân sủng của Chúa, người thụ nhân phải chuẩn bị cách chu đáo. Công đồng Vaticanô II dạy rằng: Đối với các tín hữu đã được chuẩn bị chu đáo, thì hầu hết mọi biến cố trong đời sống sẽ được thánh hóa nhờ thánh ân xuất phát từ mầu nhiệm phục sinh của Chúa Kitô chịu thương khó, chịu chết và sống lại, vì Người là nguồn mạch ban năng lực cho tất cả các Bí Tích và Á Bí Tích. Hầu như không có việc sử dụng của cải vật chất một cách chính đáng nào lại không có thể đưa tới mục đích thánh hóa con người và ca khen Thiên Chúa (PV,61).
c.      Hiểu thế nào là Ấn tích
Đối với Hội thánh, ấn tích là dấu chỉ phân biệt người tín hữu với những kẻ chưa rửa tội, người ngoại giáo và giữa các tín hữu, phân chia họ ra nhiều cấp bậc khác nhau. Khi nói đến hiệu quả của Bí tích Rửa tội, chúng ta cũng cần nói cho người tân tòng hiểu về Ấn tích của Bí tích Rửa tội. Giúp cho anh chị em tân tòng hiểu rằng: Ân tích là một dấu ấn thiêng khắc ghi trong linh hồn thụ nhân và không thể tẩy xóa để chỉ cho họ biết họ thuộc về Chúa Kitô. Do đó, Bí tích Rửa tội là Ấn tích của sự sống muôn đời, và chỉ được lãnh nhận một lần mà thôi.[5] Nghĩa là từ khi họ được rửa tội, Ấn tích đó đã chứng thực họ là con Thiên Chúa và thuộc về Chúa Kitô(Xc.1Cr 6,19). Họ đã được ghi dấu đức tin, dấu ấn của Chúa Thánh Thần, nên họ phải trung thành và cố gắng chu toàn với ơn gọi làm con Thiên Chúa. Đồng thời Ấn tích đó là một bảo chứng để mang lại hiệu quả của ơn cứu độ trong ngày cứu chuộc. Họ được trở nên thành phần chính thức của Hội thánh và mang sứ mạng rao giảng, tôn thờ và phục vụ Thiên Chúa nhờ Ấn tích thánh hiến mà họ đã lãnh nhận. “Thế nhưng ấn tín vô hình, làm ta phân biệt được? thật ra, nhờ xác tín ấn tín ghi trong tâm hồn, mỗi người tín hữu thực thi các công tác thích hợp với ân sủng mà họ đã lãnh nhận. như thế, ấn tín giúp ta phân biệt giữa người có đạo với người không có đạo, vì người có đạo, nhờ ấn tín, họ trở thành tế bào của Nhiệm Thể Đức Kitô, được quyền lãnh các bí tích.[6]  
4.     Kết luận
Trong các phần trình bày ở trên, chúng ta đã thấy được hiệu quả thiết yếu từ hai nguyên tắc (ex opere operato và ex opere operatis). Có thể khẳng định rằng, mọi Bí tích cử hành được thành sự và nên thì phải hội đủ hai nguyên tắc trên. Chúng ta càng thấy rõ hơn khi áp dụng hai nguyên tắc đó vào Bí tích Rửa tội. Nghĩa là khi Bí tích Rửa tội được gọi là thành sự và nên trọn, cũng có nghĩa thừa tác viên và thụ nhân đã thi hành đủ các qui định của Hội thánh dạy khi cử hành. Tóm lại, nguồn mạch ân sủng của Bí tích Rửa tội chính là Ba Ngôi Thiên Chúa, và duy nhất ân sủng chỉ được ban từ quyền năng của Thiên Chúa Ba Ngôi. Do đó, mọi nghi thức, chất liệu khi cử hành Bí tích Rửa tội và thừa tác viên chỉ là nguyên nhân công cụ mà thôi, còn Đức Kitô mới là nguyên nhân chính để ban ân sủng cho thụ nhân. Nhưng để được cử hành và lãnh nhận Bí tích Rửa tội cách trọn vẹn, thừa tác viên và thụ nhân phải có tâm tình, ý hướng và ước muốn cử hành hay lãnh nhận Bí tích. Nghĩa là thừa tác viên và thụ nhân phải chuẩn bị tâm hồn cách sốt sắng để xứng đáng cử hành và lãnh nhận ân sủng của Thiên Chúa trao ban.  


[1] Xc.PHẠM QUỐC VĂN, Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu, HV-Đaminh, 2010, tr 26-27; TÂN YÊN, Phụng Vụ Bí Tích,1996, tr 48-49.
[2] Xc.PHẠM QUỐC VĂN, Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu, HV-Đaminh, 2010, tr 30-37
[3] Nghĩa là cử hành đúng ý hướng và qui định của Hội thánh, đồng thời dùng những chất liệu đúng với Hội thánh buộc (Xc. GL, điều 850,853-854)
[4] PHẠM QUỐC VĂN, Từ Cạnh Sườn Bị Đâm Thâu, HV-Đaminh, 2010, tr 27
[5] Xc.GLHTCG, 1997, số 1272-1274
[6]Xc. NGUYỄN VĂN TRINH, Bí Tích Rửa Tội, 2002, tr 414-417

DIỆN MẠO GIÁO HỘI THEO THÁNH AUGUSTINÔ


Sau khi tìm hiểu những bài đọc kinh sách trích từ tác phẩm của thánh Augustinô, tôi thấy ngài đã nêu lên những suy tư thần học về Giáo hội qua các diện mạo sau. Trước tiên, ngài đề cập đến sự hiệp nhất trong Giáo hội dựa trên nền tảng mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi; thứ đến là một Giáo hội tiến bước trong sự bách hại và chống đối; tiếp theo Giáo hội là hiện thân của lòng thương xót Chúa; và cuối cùng Giáo hội là thân mình của Đức Kitô. Người viết xin trình bày các chủ đề trên như sau:
1.   Giáo hội hiệp nhất theo gương mẫu của Thiên Chúa Ba Ngôi
Ngay từ đầu, thánh Augustinô đã nhấn mạnh đến tính chất hiệp nhất trong Giáo hội, sự hiệp nhất được cụ thể hóa khi Giáo hội cử hành Bí tích Thánh Thể. Mỗi khi Giáo hội cử hành bí tích, mọi người Kitô hữu cùng tham gia, điều đó nói lên tinh thần hiệp thông với Giáo hội trong Chúa Kitô. Giáo hội cử hành bí tích là thể hiện sự hiệp thông chính nội tại, hầu thánh hóa mỗi người bằng đức ái và lòng mến để hiệp nhất với nhau và trở nên một trong Chúa Kitô. Bởi thế, thánh nhân nhấn mạnh rằng: “Mọi hình thức chia rẽ và ly khai đều đi ngược lại với bản chất của Giáo hội. Sau khi mỗi người Kitô hữu tiếp nhận Thánh Thần, Đấng châm ngọn lửa tình yêu, ai nấy đều được đức ái và nhiệt tình của Thần Khí, đưa về một mối và sống với nhau trong tình hiệp nhất.”[1] Tư tưởng thần học hiệp nhất trong Giáo hội được ngài so sánh với mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi. Theo ngài, “Thánh Thần là mối dây tình yêu giữa Cha và Con, nên cũng là dây tình yêu liên kết giữa các tín hữu; như thế sự hiệp nhất của Giáo hội phản ánh và thông phần vào sự hiệp nhất của Thiên Chúa Ba Ngôi.”[2] Cũng nên biết thêm rằng, vào thời của ngài có nhiều người theo phái Donat. Phái này đã ly khai với Giáo hội, bởi thế sứ vụ của ngài là nhắm đến việc khẳng định lập trường của Giáo hội trước bè phái chia rẽ này. Với ngài, lòng kính mến Thiên Chúa và lòng yêu thương giữa con người với nhau làm nên một Giáo hội hiệp nhất trong Chúa Kitô, cũng giống như làm cho mọi chi thể thắt chặt với nhau nhờ mối giây yêu thương là Chúa Thánh Thần.
2.   Giáo hội tiến bước trong bách hại và chống đối
Từ sơ khai cho tới thời của thánh Augustinô, lịch sử Giáo hội luôn mang trong mình nhiều sắc thái: Giáo hội bị bách hại trong suốt mấy thế kỷ đầu, đến thời Giáo hội rất phồn thịnh và Kitô giáo được xem như quốc giáo (Chiếu chỉ Milan năm 313). Nhưng rồi, Giáo hội luôn bị xâu xé bởi nhiều dạng bách hại khác nhau. Những chặng đường của lịch sử đã diễn ra như thế, Giáo hội không bao giờ dửng dưng và để mặc cho lịch sử. Ngược lại, Giáo hội luôn suy nghĩ về chính mình, cũng như vai trò của chính mình với mọi thời. Bởi vậy, nhờ những suy tư nền tảng đó mà thần học về Giáo hội ngày được khám phá và khai triển cách đầy đủ hơn. Thánh Augustinô là một trong những nhà thần học đầu tiên đã khai mở và suy tư về Giáo hội học, những suy tư đó hầu làm nền tảng cho thần học về Giáo hội ngày nay. Ngài đã nói đến sự khổ ải và khó khăn của Giáo hội trong cuộc lữ hành này; cũng như Giáo hội đã đối diện và chịu những thách đố của mọi thế lực muốn chống Giáo hội. Tuy nhiên, Giáo hội vẫn đứng vững trước muôn vàn thử thách, đồng thời vẫn phát triển và hòa nhập với thế giới qua mọi thời.
Mặc dù Giáo hội chịu những thách đố và chống đối, nhưng vẫn thăng tiến trong sự quan phòng và hướng dẫn của Đức Kitô là đầu của Giáo hội. Giáo hội nhiều lúc xem ra bị suy tàn hay khủng hoảng cách trầm trọng, nhưng chính lúc đó, Giáo hội lại xuất hiện những khuôn mặt lỗi lạc để lấy lại và khơi lên căn tính cũng như vai trò của Giáo hội Chúa Kitô. Ngay từ nguyên thủy, Giáo hội được xây trên một đá gốc là Đức Kitô, và Giáo hội là của chính Người, nên được Người che chở qua việc Giáo hội yêu mến Người. Nhờ yêu mến và bước đi theo Đức Kitô nên Giáo hội được Người giải thoát khỏi mọi sự dữ và vĩnh cửu.
3.   Giáo hội là cộng đoàn diễn tả lòng thương xót của Thiên Chúa
Giáo hội là mẹ của những người con đang trên đường theo Chúa. Vì thế, Giáo hội cưu mang và hướng dẫn con cái của mình tiến đến đích điểm của sự trọn lành. Với thánh nhân, mỗi người đều mang trong mình tội lỗi, nhưng với lòng nhân lành và rất yêu thương, Giáo hội luôn hướng dẫn và mời gọi kẻ tốt trở nên tốt hơn, người tội lỗi biết trở về nẻo chính đường ngay và được sống trong ân nghĩa của Chúa. Thánh nhân khẳng định rằng, Giáo hội là mẹ đang ngày đêm ngóng chờ những kẻ lầm lạc, chăm sóc những ai bị thương tích, và hướng dẫn đoàn con sống trong tình hiệp thông huynh đệ.
Không những thế, Giáo hội còn là mẹ của một đoàn con đông đúc đã thừa lệnh Đức Kitô, là đầu của Giáo hội để hướng đẫn, nâng đỡ, và lo lắng cho đoàn con. Bởi thế, Giáo hội hằng mở rộng vòng tay để đó nhận những con chiên lạc quay trở về. Đồng thời, Giáo hội luôn sẵn sàng chữa lành và băng bó những con chiên bị thương tích, quan tâm và chăm sóc những con chiên bị bỏ rơi. Như thế, lòng xót thương của người mẹ là Giáo hội diễn tả lòng nhân lành và bao dung, là nơi để cho đoàn con được gần gũi và cảm nếm được tình yêu của Thiên Chúa.
4.   Giáo hội là thân mình của Đức Kitô
Đức Kitô là đầu của Giáo hội, vì thế Giáo hội là thân mình của Người. Vì là đầu, bởi Người lập nên Giáo hội, Người luôn hiện diện và hướng dẫn Giáo hội tiến bước. Phêrô được Đức Kitô trao quyền hướng dẫn và điều hành Giáo hội, làm đại diện cho Giáo hội để nhận chìa khóa Nước Thiên Chúa. Điều này nói lên một sự giao phó và đặt để quyền bính trong Giáo hội, cũng giống như khi Vị Mục Tử Tối Cao trao chiên cho Phêrô và giao cho ngài coi sóc để làm cho chúng được nên một với Người. “Và như thế, Người trao chiên cho ông để chính Người là đầu, còn chính ông tượng trưng cho thân thể Người là Hội Thánh, và để cả hai nên một thân mình như tân lang và tân nương.”[3]
Là thân mình, nên Giáo hội có nhiều chi thể, và mỗi chi thể đều liên kết với nhau trong tình yêu và lòng mến. Mỗi khi các tính hữu qui tụ và hiệp nhất bên giám mục để cử hành mầu nhiệm Thánh Thể, lúc đó chính cộng đoàn tham dự vào sự sống của Đức Kitô và được trở nên giống Người. Giáo hội có nhiều chức vụ và thành phần khác nhau, nhưng cùng một thân thể duy nhất được Đức Kitô là đầu hướng dẫn. Vì tất cả cùng chung một phép rửa, cùng ăn một tấm bánh, và cùng được hướng dẫn bởi một đầu là Đức Kitô. Do đó, Giáo hội trở nên tốt lành trước mặt Chúa Cha là nhờ lời cầu nguyện của Đức Kitô, là Đấng mà chúng ta luôn nài van. Để toàn thân thể được khỏe mạnh và trong sạch thì Giáo hội phải gắn liền với đầu là Đức Kitô, vì Người là đầu mối của mọi sự thánh thiện và quyền năng.
Kết luận
Qua tìm hiểu, tôi thấy thánh Augustinô đã trình bày diện mạo của Giáo hội thật phong phú và thực tế qua nhiều khía cạnh khác nhau. Ngài đã kết hiệp Giáo hội với những thực tại trần thế, nhưng điều trọng tâm là Giáo hội được xây dựng trên nền móng của Đức Kitô, Đấng là đầu của Giáo hội. Rồi ngài suy tư về Giáo hội là thân mình của Đức Kitô, cũng như Giáo hội hiệp nhất trong Chúa Ba Ngôi. Đó là những ý tưởng nền tảng của ngài đã để lại mà đến ngày nay vẫn tiếp tục có giá trị và đóng góp rất nhiều cho thần học về Giáo hội. Đây cũng là những ý tưởng cao quý hầu giúp tôi nghiên cứu và xây dựng Giáo hội ngày càng tốt đẹp hơn trên con đường tận hiến.



[1] Peter Neuner, Giáo hi hc qua các tác gi- gi Philadelphia, 7,2, do Nguyn Văn Hòa, OP dch, Wien Koln, tr 109
[2] Erich Plumer, S phát trin ca Giáo hi hc: t Giáo hi sơ khai đến thi ci cách, đ cương hc, tr 6
[3]Các Bài Đọc Kinh Sách, Trích kho lun ca thánh Augustinô, giám mc, v các mc t, Bài đc 2, th Sáu, CN XXV, Thường Niên

TƯƠNG QUAN GIỮA GIÁM MỤC VÀ LINH MỤC


DSC_0157
Công đồng Vatianô II đã tuyên bố rằng: Giáo hội là Dân Thiên Chúa. Mà Dân Thiên Chúa là một dân có tổ chức, là một cộng đoàn chứ không phải là một đám đông hỗn hợp, trong đó có quyền bính được thi hành trong Giáo hội và trên Giáo hội do các Tông đồ và được tiếp nối bởi các Giám mục, là những người kế vị các Tông đồ. Quyền bính đó không tự các Tông đồ có được, nhưng là do Chúa Ki-tô trao ban cho các Tông đồ, nhằm để phục vụ Nước Trời, cùng với sự cộng tác của Linh mục và Phó tế. Thật vậy, Công đồng Vaticanô II khẳng định: “Để chăn dắt và phát triển Dân Thiên Chúa luôn mãi, Chúa Ki-tô đã thiết lập các chức vụ khác nhau trong Giáo hội hầu mưu ích cho toàn thân. Thực vậy, các thừa tác viên sử dụng quyền bính thiêng liêng mà phục vụ anh em mình, để mọi người thuộc Dân Thiên Chúa và đương nhiên hưởng phẩm giá Ki-tô hữu sẽ đạt đến phần rỗi, nhờ nỗ lực tiến tới cùng một cứu cánh trong tự do và trật tự”.[1]
Giáo phận là một phần Dân Chúa được giao phó cho một giám mục chăm sóc, với sự cộng tác của Linh mục đoàn, để nhờ liên kết với vị chủ chăn của mình và qua Ngài, giáo phận được quy tụ trong Chúa Thánh Thần nhờ Phúc Âm và Thánh Thể, làm thành một Giáo Hội riêng biệt, trong đó Giáo hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông truyền của Chúa Ki-tô hiện hữu và hành động thực sự".[2]
Trong phạm vi đề tài, nhóm xin được trình bày mối tương quan giữa Giám mục và Linh mục qua các phần như sau:
I. BẢN CHẤT CỦA CHỨC GIÁM MỤC VÀ LINH MỤC
Trước tiên, để tìm hiểu bản chất của Giám mục và Linh mục, chúng ta xem một số đoạn Kinh Thánh liên quan đến chức Giám mục và Linh mục. Thánh Phaolô nói với Ti-mô-thê môn đệ của mình: “Tôi nhắc anh phải khơi lại đặc sủng của Thiên Chúa, đặc sủng anh đã nhận được khi tôi đặt tay trên anh (2Tm 1,6) và “Ai mong được làm giám quản, người ấy ước muốn một nhiệm vụ cao cả” (1Tm 3,1). Ngài cũng nói với Ti-tô: “Tôi đã để anh ở lại đảo Kê-ta, chính là để anh hoàn thành công việc tổ chức, và đặt những kỳ mục trong mỗi thành như tôi đã truyền cho anh” (Tt 1,5). Còn trong 1Tm 5,22: Thánh Phao-lô nhắc nhở môn đệ Ti-mô-thê cẩn thận trong việc đặt tay để chỉ định giám quản.
Đức Ki-tô đã kêu gọi đến với mình những kẻ Người muốn và thiết lập mười hai vị để chung sống với Người cùng sai họ đi rao giảng nước Thiên Chúa. Người tổ chức cho các Tông đồ theo hình thức cộng đoàn và đặt Phê-rô làm đầu. Nhờ tham dự vào quyền bính của Người, các Tông đồ làm cho mọi dân tộc nên môn đệ Người cùng thánh hóa và điều khiển họ. Như thế, dưới sự hướng dẫn của Đức Giê-su Ki-tô, các ngài mở mang và chăn dắt Giáo hội bằng việc phục vụ mọi ngày cho đến tận thế. Để sứ mạng được tiếp nối sau khi các Tông đồ qua đời, nên các ngài đã ủy thác và ban quyền cho các cộng sự viên trực tiếp của mình nhiệm vụ hoàn tất và củng cố công trình các ngài đã khởi sự. Có nhiều thừa tác vụ khác nhau được thi hành trong Giáo hội từ buổi sơ khai. Theo chứng từ của Truyền thống, thừa tác vụ chính yếu là thừa tác vụ của những vị đã được bổ nhiệm lên chức Giám mục, nhờ liên tục kế vị từ buổi ban đầu. Như thế, theo chứng tích của thánh I-rê-nê, Truyền thống tông đồ được biểu hiện trên khắp hoàn cầu và được bảo tồn nhờ những đấng được các Tông đồ đặt làm Giám mục và các vị kế nghiệp các ngài cho đến ngày nay.
Đức Ki-tô hứa Người ở cùng các môn đệ cho đến tận thế. Và Thánh Thần được trao ban để các Tông đồ, những người kế vị, cùng các cộng sự viên của các ngài có thể chu toàn nhiệm vụ. Giám mục, Linh mục đều nhận lãnh nhiệm vụ nhờ Bí tích Truyền Chức Thánh: qua việc đặt tay của Giám mục và được thánh hiến bởi Thánh Thần và thi hành sứ vụ dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần. Như thế, chúng ta thấy Giám mục và Linh mục được xuất phát cùng một nguồn gốc từ Chúa Ki-tô; cũng thế, vai trò và nhiệm vụ của các ngài là nhằm để phục vụ Giáo hội với tư cách là đại diện Chúa Ki-tô. Đồng thời, các ngài cũng được đặt tay và lãnh nhận các nhiệm vụ do việc đặt tay, cùng được thánh hiến bởi Chúa Thánh Thần và cùng thi hành sứ vụ trong vai trò đại diện Chúa Ki-tô.
Như thế, Giám mục và Linh mục với chức tư tế thừa tác, các ngài cùng có những trách nhiệm: Thánh hóa, giảng dạy và cai quản nhân danh Chúa Ki-tô. Để vấn đề được rõ ràng và cụ thể hơn, chúng ta cùng tìm hiểu vài tương quan qua vai trò của các ngài.
II. CÁC MỐI TƯƠNG QUAN
Nhờ việc phong chức thánh, một số Ki-tô hữu được đặt lên nhân danh Đức Ki-tô và được lãnh nhận ơn Thánh Thần để chăn đắt Giáo hội bằng lời và ân sủng của Thiên Chúa.[3] Thừa tác vụ của Hội thánh do chính Chúa thiết lập và do các Tông đồ truyền lại có ba cấp bậc: Giám mục, Linh mục và Phó tế.[4] Đó chính là những cấp bậc chính yếu của phẩm trật trong Giáo hội. Ở đây, chúng tôi chỉ xin đề cập đến mối tương quan giữa Giám mục và Linh mục mà thôi.
Các giám mục có sự viên mãn của bí tích truyền chức, trở nên những thầy dạy đức tin, thượng tế và mục tử thực thụ và chính thức. Các ngài có nhiệm vụ rao giảng Lời Chúa, thánh hoá dân Thiên Chúa bằng cách cử hành bí tích, nhất là Hy tế Tạ ơn, trao các nhiệm vụ thánh và ban hành kỷ luật về cử hành phụng vụ và bí tích, đồng thời các ngài cũng làm phát triển, bảo vệ đạo lý, tránh những lầm lạc, những vấn đề đức tin và luân lý.[5]
Các linh mục, cũng nhờ sự thánh hiến của bí tích truyền chức, liên kết với Giám mục trong chức tư tế và tuỳ thuộc vào ngài khi thi hành các phận vụ nói trên.[6] Trong lời nguyện Tông truyền đã nói rõ vai trò và nhiệm vụ của các ngài như sau: Giờ đây xin cũng nhìn đến tôi tớ Cha, người được đưa vào hàng linh mục do việc tuyển chọn và quyết định của toàn thể giáo sĩ, xin ban tràn đầy Thần khí ân sủng và dạy dỗ trên tiến chức này, để người giúp đỡ và quản trị dân Cha với tâm hồn trong sạch, cũng như Cha đã nhìn đến Dân Cha tuyển chọn và truyền cho ông Môisê tuyển chọn những kỳ mục để Cha ban đầy tràn thần khí Cha trên họ.
Tóm lại, tương quan giữa Giám mục và Linh mục trong phẩm trật được thể hiện rõ nét qua cùng một nguồn gốc từ Đức Ki-tô, cùng trách nhiệm là rao truyền, thánh hóa và cai quản Dân Chúa. Bên cạnh đó cũng có sự khác nhau về mức độ tham gia vào bí tích truyền chức. Giám mục lãnh nhận chức linh mục cách trọn vẹn và hoàn hảo, còn Linh mục tham gia một phần vào chức linh mục. Nghĩa là trách nhiệm tham dự của Giám mục và Linh mục khác nhau về chức tư tế của Chúa Ki-tô. Điều đó được thể hiện qua nghi thức thụ phong và lời nguyện thánh hiến.
Giờ đây, chúng ta thử tìm hiểu những mối tương quan trong sứ vụ giữa Giám mục và Linh mục.
1.Tương quan trong sứ vụ
1.1.Tư tế
Giám mục, bởi nhận lãnh bí tích Truyền Chức Thánh cách viên mãn, là "người quản lý ơn sủng của chức Linh mục tối cao", nhất là trong hy lễ tạ ơn do chính ngài dâng hoặc lo liệu cho có lễ dâng, nhờ đó Giáo hội luôn sống động và tăng triển. Qua việc tấn phong, Giám mục nhận lãnh sự trọn vẹn của thiên chức Linh mục. Toàn thể Dân Chúa là dân tư tế nhờ phép rửa, nhưng Đức Giêsu đã thánh hiến cách đặc biệt những người mà ngài đã chọn lên chức Giám mục để phục vụ Ngài, để họ trở thành những đại diện hữu hình cho chức Linh mục tối thượng của Ngài. Chính nhờ các bí tích mà hành động tư tế của Đức Giêsu đến được với chúng ta, thì các Giám mục là những thừa tác viên chính của các bí tích. Nếu khi thi hành sứ vụ, các Giám mục cần đến những người trợ giúp là những người thông phần vào chức Linh mục của mình, thì trật tự bí tích vẫn thuộc thẩm quyền và tuỳ thuộc vào các ngài. Thánh I-nha-xi-ô An-ti-ô-ki-a nói rằng, không có bí tích Thánh Thể hợp pháp ngoài Thánh Thể được cử hành dưới sự chủ toạ của Giám mục hoặc những người mà Giám mục uỷ thác” (Smyrn,8,1). Bởi thế, việc ban cho các Linh mục những gì cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ riêng của mình thì đó là điều tuỳ thuộc vào Giám mục. Bên cạnh đó, với chức tư tế, Giám mục là thừa tác viên thông thường của một số bí tích như Thêm Sức hay Truyền Chức Thánh.
Còn Linh mục, dù không có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc hoàn toàn vào Giám mục khi thi hành quyền bính, hơn nữa cùng hiệp nhất với Giám mục trong tước vị Linh mục để thi hành chức tư tế đã được lãnh nhận. “Là thừa tác viên lo việc phụng tự, nhất là trong Hy Tế Thánh Lễ, các Linh mục là hiện thân của Đức Ki-tô, Đấng đã tự hiến chính mình làm hy vật thánh hóa nhân loại; và như thế các ngài được mời gọi bắt chước điều các ngài đang thi hành”.[7] Hơn nữa Công đồng Vaticanô II cũng nhấn mạnh rằng: “Tất cả các Linh mục, hiệp nhất với các Giám mục, đều tham dự cùng một chức tư tế và thừa tác vụ duy nhất của Chúa Ki-tô”.[8] Như thế, ngoài chức tư tế cộng đồng nhờ phép Rửa, Giám mục và Linh mục đều là những tư tế thừa tác được Thiên Chúa tuyển chọn, là hiện thân của Đức Ki-tô. Vì vậy, “Giám mục và Linh mục là những tư tế thừa tác không những có nhiệm vụ đóng vai trò Đức Ki-tô, Thủ Lảnh của Hội Thánh, trước cộng đoàn tín hữu, mà còn hành động nhân danh Hội Thánh, khi dâng lên Thiên Chúa kinh nguyện Hội Thánh, nhất là khi cử hành thánh lễ”.[9]
1.2. Ngôn Sứ
Công đồng Vaticanô II xác định rằng: Đức Ki-tô, Đấng Chúa Cha thánh hiến và sai đến thế gian (Ga 10,36) nhờ các Tông đồ, đã làm cho những người kế vị các ngài, tức là các Giám mục, được tham dự vào việc thánh hiến và sứ mạng của mình. Sau đó, các Giám mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo hội theo từng cấp bậc.[10] Vì thế, “việc rao giảng Phúc Âm là một nhiệm vụ trổi vượt trong các nhiệm vụ chính yếu của Giám Mục, Giám Mục là những người rao truyền đức tin, đem nhiều môn đệ mới về với Chúa Ki-tô, Giám Mục là những tiến sĩ đích thực, nghĩa là có uy quyền của Chúa Ki-tô, giảng dạy cho những kẻ được trao phó cho các Ngài, một đức tin phải được xác tín và phải được áp dụng vào các phong tục, và làm sáng tỏ đức tin đó bởi ánh sáng của Chúa Thánh Thần. Các Ngài rút ra những cái mới cái cũ trong kho tàng Mạc Khải (x. Mt 13,52) để làm cho đức tin trổ sinh hoa trái và luôn tỉnh thức loại bỏ mọi lầm lạc đang đe dọa đàn chiên mình (2Tm 4,1-4)”.[11]
Cũng như Giám mục, đối với Linh mục, nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là rao truyền lời Chúa. Thực vậy, chính nhờ lời Chúa qui tụ Dân Chúa quanh bàn thờ. Cũng chính nhờ lời giảng dạy mà các Linh mục thực hiện nhiệm vụ truyền giáo chính yếu của ngài. Đàng khác, khi việc rao truyền lời Chúa chưa thể thực hiện được, thì chính đời sống gương mẫu và gương sáng các ngài giữa lương dân đã là một cách thế rao truyền lời Chúa.
Do đó, các Linh mục hiệp thông với Giám mục trong chức vụ thừa tác. Hơn nữa, Linh mục là những cộng tác viên đắc lực của Giám mục, làm thành một linh mục đoàn duy nhất có nhiệm vụ rao giảng lời Chúa. Thuộc quyền Giám mục, Linh mục được trao nhiệm vụ trực tiêp hướng dẫn và giảng dạy cho đoàn chiên hiểu và thấm nhuần lời Chúa.
1.3.Vương Đế
Thánh Công Đồng dạy rằng, khi được tấn phong, các Giám mục nhận lãnh sự trọn vẹn của bí tích Truyền Chức Thánh mà tập tục phụng vụ Giáo hội và các thánh Giáo phụ gọi là chức tư tế tối cao và nhận lãnh thực tại trọn vẹn của thừa tác vụ thánh. Việc tấn phong Giám mục trao ban nhiệm vụ thánh hóa cũng như nhiệm vụ giảng dạy và cai trị. Tuy nhiên các nhiệm vụ ấy, do bản tính, chỉ có thể thực thi trong sự hiệp thông phẩm trật với Đức Giáo Hoàng và với các anh em trong Giám mục đoàn.[12]
Mỗi Giám mục được đặt làm thủ lãnh một Giáo hội địa phương, thực hành quyền mục vụ trên phần Dân Thiên Chúa được giao phó cho mình, chứ không được thực hành quyền mục vụ trên các Giáo hội địa phương khác hoặc Giáo hội phổ quát.[13] Khi đề cập đến chức năng vương đế, chúng ta thường nghĩ ngay đến việc lãnh đạo. Thế nhưng, là đại diện và sứ giả của Đức Ki-tô, các Giám mục điều khiển Giáo hội địa phương mà Chúa đã ủy thác bằng lời khuyên bảo, gương lành và còn bằng uy quyền thánh chức nữa. Thực vậy, các ngài chỉ sử dụng quyền bính này để xây dựng đoàn chiên trong chân lý và thánh thiện, khi tâm nguyện rằng: “kẻ cao trọng hãy nên như kẻ rốt hết, người làm chủ hãy nên như người tôi tớ” (Lc 22, 26-27).[14]
Thế rồi, các Giám mục lại giao trách nhiệm của thừa tác một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo hội của mình mà cụ thể ở đây là các Linh mục. Các Linh mục là cộng sự chủ chốt của Giám mục. Bởi vì nhờ bí tích Truyền Chức Thánh, Linh mục được thánh hiến theo hình ảnh Chúa Ki-tô, Thầy cả thượng phẩm vĩnh viễn, để rao giảng Phúc âm, chăn dắt tín hữu và cử hành phụng tự Thiên Chúa.[15] Là cộng sự viên khôn ngoan, Linh mục được kêu gọi để phục vụ Dân Thiên Chúa. Các ngài hợp với Giám mục của mình và tạo thành Linh mục đoàn duy nhất với nhiều nhiệm vụ khác nhau. Như thế, xét theo sứ vụ vương đế, “các Linh mục được tham dự vào việc điều hành mục vụ của Giám mục, và theo phạm vi quyền hạn của các ngài mà hành xử nhiệm vụ của chính Chúa Ki-tô”.[16]
Tóm lại, Giám mục và Linh mục có chung nhiệm vụ: Chăn dắt và nêu gương cho đoàn chiên (Cv 20,17-28, 1Pr 5,1-4; 1Tm 3,1-7); gắn bó với đạo lý lành mạnh và khuyên nhủ mọi người sống trung thành với giáo lý (Tt 1,5-9) và bảo vệ đoàn chiên trước những lý thuyết sai lạc (2 & 3 Ga).
2. Tương quan trong tình huynh đệ
Tất cả các Linh mục, hiệp nhất với các Giám mục, đều tham dự cùng một chức Linh mục và thừa tác vụ duy nhất của Chúa Ki-tô; cho nên, chính tính cách duy nhất của việc tấn phong và sứ mệnh đòi phải có sự hiệp thông phẩm trật giữa các ngài và Giám mục.[17] Đôi khi mối hiệp thông đó được biểu hiện một cách rất cao đẹp trong việc cùng cử hành phụng vụ, và một cách minh nhiên trong khi cử hành Tiệc Thánh Thể. Do đó, vì ơn Chúa Thánh Thần ban cho các Linh mục khi lãnh nhận Chức Thánh, các Giám mục phải coi các ngài như những trợ tá và cố vấn cần thiết trong thừa tác vụ, cũng như trong chức vụ dạy dỗ, thánh hóa và chăn dắt dân Chúa.[18] Giám mục phải xem các Linh mục, những cộng sự viên của mình như thể bạn hữu, như Đức Ki-tô không còn gọi môn đệ là tôi tớ nhưng là bạn hữu (Ga 15,15). Do đó, tất cả các Linh mục, triều cũng như dòng, bởi chức thánh và thừa tác vụ, luôn gắn kết với Giám mục đoàn và tùy theo ơn gọi và ân sủng mà phục vụ cho lợi ích của toàn thể Giáo hội.[19]
Trong huấn từ dịp Ad Limina 2002, Đức Gioan Phaolô II đã khuyên các Giám mục Việt Nam hãy luôn gần gũi hơn với các Linh mục, quan tâm tới đời sống hàng ngày của họ, để nâng đỡ họ và đồng hành cùng họ, nhất là khi họ gặp thử thách vì thi hành sứ vụ; cung cấp cho họ một sự đào tạo thiêng liêng thích nghi với những thách đố trong việc truyền giáo mà họ phải đối diện.[20] Các Giám mục nên đi bước trước trong cuộc đối thoại thân hữu và thường xuyên với các Linh mục trẻ, để họ có thể cởi mở và chân thành bàn cãi cách riêng tư, với sự hướng dẫn từ phụ của Giám mục, về công việc, thành công và thất bại, kế hoạch và vấn đề, và về đời sống thiêng liêng của họ nữa. Đối với những Linh mục về hưu, Giám mục cần quan tâm thăm hỏi các ngài, động viên các ngài; mặt khác còn chăm lo bệnh tật và cung cấp tài chánh để nuôi dưỡng các ngài cách chu đáo.
Hơn nữa, đức Giám Mục là hiện thân của Chúa Giêsu Linh Mục Thượng Phẩm, hiện diện giữa loài người để phục vụ Dân Chúa cùng với sự phụ tá của các linh mục và các thành phần khác trong giáo dân. Do đó, Đức Giám Mục cần nhìn nhận các linh mục là anh em và bạn hữu, hết sức lo lắng đến ích lợi của họ. Đối lại, các cộng sự viên của giám mục phải kính trọng, vâng phục và giúp đỡ Đức Giám Mục trong tinh thần hiệp thông sâu sắc, đặt lợi ích dân Chúa hơn lợi ích riêng tư.[21] Tình huynh đệ linh mục và sự thuộc về linh mục đoàn là những yếu tố đặc trưng của linh mục. Do đó, các linh mục giáo phận đều thuộc về linh mục đoàn giáo phận. Các ngài phải tìm thấy nơi linh mục đoàn những phương thế đặc thù, nên thánh và rao giảng Phúc Âm, ở đó linh mục phải được giúp đỡ để lướt thắng những khó khăn của đời sống linh mục. Các ngài cần tránh mọi hoạt động lẻ loi đơn độc.
3. Tương quan giữa Linh mục dòng với Giám mục
Các Linh mục dòng cũng nhận lãnh thừa tác vụ Linh mục do bởi Bí tích Truyền Chức từ các Giám mục, như thế, họ cũng cần phải kính trọng và vâng phục Giám mục giáo phận.[22] Và, nhất là Linh mục dòng sống và làm việc trong một Giáo hội địa phương, với một tước hiệu khác, cũng thông phần vào Linh mục đoàn duy nhất, dưới sự hướng dẫn của Giám mục giáo phận. Các đặc sủng riêng biệt và đa dạng của họ vừa mời gọi, động viên các Linh mục tấn tới trong nỗ lực thấu hiểu chức Linh mục, và sát cánh với các Giám mục trong việc đào tạo thường kỳ. Giám mục giáo phận luôn tôn trọng tính chất đặc thù của từng Hội Dòng và cũng như truyền thống tu đức. Ân huệ dòng tu trong cộng đoàn giáo phận nới rộng chân trời làm chứng Ki-tô giáo và bằng nhiều cách, góp phần làm cho nền tu đức Linh mục nên phong phú. Ân huệ dòng tu đóng vai trò ấy, đặc biệt trong những gì liên can đến tương quan thoả đáng và ảnh hưởng hỗ tương giữa những giá trị của Giáo hội địa phương với những giá trị của toàn thể Dân Chúa. Về phía mình, các Linh mục dòng phải chú tâm duy trì một tinh thần hiệp thông với Giáo hội thật sự, cách riêng là với Giám mục, đặc biệt trong việc mục vụ các Linh mục dòng phải tuân theo qui định và sự vận hành của giáo phận, cụ thể là theo hướng dẫn của Giám mục, bằng cách tự nguyện hiến dâng đặc sủng riêng của mình hầu xây dựng Giáo hội trong đức ái.
Ví dụ cụ thể: Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời (SVD) muốn đến hiện diện tại một giáo phận nào đó, trước tiên, vị bề trên dòng phải làm việc với Giám mục giáo phận đó, đồng thời được ngài cho phép dòng hiện diện. Sau đó vị bề trên mới gửi Linh mục của mình tới và giới thiệu với Giám mục giáo phận. Tiếp đến, vị Linh mục tiếp nhận nhiệm vụ và những chỉ dẫn từ Giám mục giáo phận mà mình thi hành sứ vụ. Khi ra làm công việc mục vụ, vị Linh mục này hoàn toàn thi hành và thực hiện những gì mà Giám mục đã trao quyền. Cụ thể trong việc cử hành các bí tích, giảng dạy hay hướng dẫn các đoàn thể phải tuân theo chỉ dẫn của Giám mục.
Như vậy, các Linh mục triều cũng như dòng với ý thức, vì các Giám mục lãnh nhận sung mãn Bí tích Truyền Chức Thánh, là đấng bản quyền, nên phải tôn trọng các ngài quyền bính của Chúa Ki-tô, vị Chủ Chăn tối cao. Các Linh mục phải kết hiệp với Giám mục bằng tình thương yêu chân thành và lòng vâng phục. Ðược thấm nhuần tinh thần cộng tác, đức vâng phục được đặt nền tảng trên chính việc tham dự vào thừa tác vụ của Giám mục, mà các Linh mục đã lãnh nhận khi lãnh nhận Bí tích Truyền Chức Thánh và bài sai do đức Giám mục trao.[23]
KẾT LUẬN
Để tiếp nối việc chăn dắt và phát triển Dân Chúa luôn mãi, Chúa Ki-tô đã thiết lập các chức vụ khác nhau trong Giáo hội hầu mưu ích cho toàn thân. Do đó, các thừa tác viên có sử dụng quyền bính cũng là nhằm mục đích phục vụ phần rỗi của anh chị em mình, hầu tiến tới cứu cánh trong tự do và trật tự. Được Chúa Cha sai phái đến trần gian (Ga 10,36), Chúa Ki-tô qua các Tông đồ đã trao cho các Giám mục, những người kế nghiệp các Tông đồ có thể tham dự vào sứ mạng của mình. Tiếp đến, các Giám mục lại giao nhiệm vụ thừa tác của mình một cách hợp pháp cho nhiều phần tử trong Giáo hội theo từng cấp bậc. Linh mục dù không có quyền tư tế tối cao và tùy thuộc vào Giám mục khi thi hành quyền bính cũng hợp nhất với Giám mục trong tước vị Linh mục.
Qua những tìm hiểu trên, chúng ta có thể nói, mối tương quan của Giám mục và Linh mục nói chung không là tương quan phẩm trật thuần túy, nhưng còn tương quan hiệp thông và nối dài sứ mạng của Chúa Ki-tô. Giám mục đã lãnh nhận việc phục vụ cộng đoàn với sự giúp đỡ của các Linh mục thuộc quyền. Các ngài đại diện Chúa Ki-tô, đứng đầu đàn chiên mà các ngài là chủ chăn. Cũng vậy, các Linh mục phải luôn có tinh thần vâng phục, hợp tác với Giám mục noi gương Chúa Giê-su hằng vâng lời Chúa Cha. Tất cả những mối tương quan là nhằm phục vụ và cứu rỗi các linh hồn.



[1] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 18
[2] Vaticanô II, Christus Dominus, số 11
[3] Nghi thức truyền chức Giám mục, Linh mục và Phó tế, 1989, số 1
[4] Ibid, số 2
[5] Ibid, số 14; Lumen Gentium, số 24 & 25
[6] Nghi thức truyền chức Giám mục, Linh mục và Phó tế, 1989, số 4
[7] Vaticanô II, Presbyterorum Ordinis, số 13
[8] Ibid., số 7
[9] GLHTCG, số 1552
[10] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 28
[11] Ibid, số 25
[12] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 21.
[13] Ibid., số 23.
[14] Ibid., số 27.
[15] Ibid., số 28.
[16] Vaticanô II, Sắc lệnh về chức vụ và đời sống Linh mục, số 13
[17] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 28.
[18] Didascalia II, 22,4.
[19] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 28.
[20] UCANEWS, “The Church is waiting for the Total Respect of its Autonomy”
[21] Vaticanô II, Lumen Gentium, số 21. 23; PO, 2.7
[22] X. Nghi Thức Phong Chức Linh Mục.
[23] X. Nghi Thức Phong Chức Linh Mục